Tiểu luận môn Xã hội học đề tài "Vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay" | Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh

Tiểu luận môn Xã hội học đề tài "Vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay"  của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

 

lOMoARcPSD|36443508
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học kỳ 2/2021-2022
NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC
VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG XÃ HỘI
NGÀY NAY
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU:..........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................5
1. KHÁI NIỆM CHUNG...............................................................................................5
1.1. Bất bình đẳng
hội...............................................................................................5
1.1.1. Định nghĩa bất bình đẳng..............................................
1.1.2. Phân loại bất bình đẳng............................................................
lOMoARcPSD|36443508
1.1.3. Các quan điểm về bất bình đẳng xã hội....................................6
1.1.4. Cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng............................................8
1.2. Bất bình đẳng giới.....................................................................10
2. Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay................................................................15
2.1. Các thực trạng liên quan đến bất bình đẳng giới trong
hội...............................16
2.2. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giới...................................22
2.2.1. Quan niệm xã hội lạc hậu.........................................22
2.2.3. Suy nghĩ, quan niệm chấp nhận của phụ nữ......................................................22
2.3. Kết quả của bất bình đẳng giới.....................................23
3. GIẢI PHÁP...........................................................................28
3.1. Giải pháp của chính phủ.....................................................29
3.2. Giải pháp cá nhân......................................................34
KẾT LUẬN.................................................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................37
lOMoARcPSD|36443508
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong hội ngày nay, bất bình đẳng giới một vấn đề nóng hổi, đáng quan
ngại cần được m hiểu sâu hơn. Hằng ngày, chúng ta chứng kiến những tác động
tiêu cực của bất bình đẳng giới trong cuộc sống của chúng ta. Từ sự chênh lệch thu
nhập, sự kỳ thị bạo lực, đến sự thiếu công bằng trong hội và quyền lợi, bất bình
đẳng giới đã lan rộng và gây ảnh hưởng đến mọi người trên khắp thế giới.
Đó do tại sao chúng tôi quyết định chọn đề tài "Bất bình đẳng giới trong hội
ngày nay" cho tiểu luận của mình. Chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu về vấn đề này sẽ
mang lại những nhận thức mới và đưa ra giải pháp hiệu quả để gim bớt bất bình đẳng
giới trong xã hội.
Đầu tiên, bất bình đẳng giới không chỉ là một vấn đề cục bộ còn một vấn
đề toàn cầu. Bất bình đẳng giới tồn tại ở mọi quốc gia, trong mọi tầng lớp xã hội ảnh
hưởng đến cả nam giới và nữ giới. Việc m hiểu vbất bình đẳng giới trong hội ngày
nay sẽ giúp chúng tôi nhận ra những mô hình và xu hướng chung của vấn đề này, từ đó
đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm giải quyết vấn đề này trên phạm vi rộng hơn.
Thứ hai, bất bình đẳng giới không chỉ ảnh hưởng đến nhân còn y tổn
thương cho hội kinh tế. Sự chênh lệch giữa nam giới nữ giới trong việc truy
cập vào giáo dục hội việc làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của một quốc
gia. Đồng thời, sự kỳ thị bạo lực đối với những nhóm giới nh khác cũng góp phần
làm suy yếu mạng lưới hội. Bằng cách nghiên cứu về bất bình đẳng giới, chúng tôi
hy vọng thể đưa ra những giải pháp chính sách thích hợp để xóa bỏ sự bất bình
đẳng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.
Thứ ba, việc nghiên cứu về bất bình đẳng giới cũng mang lại cơ hội để chúng tôi
nâng cao nhận thức hiểu biết về vấn đề này. Điều y giúp chúng tôi nhìn nhận
hơn về các thách thức phụ nữ những nhóm giới tính khác đang phải đối mặt hàng
ngày, từ việc xâm phạm đến quyền tự quyết và tự do cá nhân cho đến sự thiếu đại diện
trong các lĩnh vực quyền lực. Chúng tôi hy vọng tiểu luận y cũng sẽ góp phần nâng
cao nhận thức của mọi người về vai trò của họ trong việc thay đổi xây dựng một
hội công bằng và đồng m.
lOMoARcPSD|36443508
Trên cơ sở những lý do trên, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài "Bất bình đẳng
giới trong xã hội ngày nay" cho tiểu luận của mình. Chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu
sâu hơn về vấn đề y sẽ mang lại những góc nhìn mới, đóng góp vào việc giải quyết
xóa bỏ bất bình đẳng giới trong hội, p phần xây dựng một tương lai tươi sáng
và công bằng hơn cho mọi người.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của tiểu luận "Bất bình đẳng giới trong hội ngày nay" là tìm hiểu,
phân tích và đánh giá tình hình bất bình đẳng giới hiện tại trong xã hội. Đây là một vấn
đề quan trọng đòi hỏi sự quan tâm thảo luận sâu hơn để xác định những nguyên nhân
hậu quả của bất bình đẳng giới, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giảm bớt loại
bỏ hiện tượng này.
Mục đích đầu tiên của tiểu luận nghiên cứu để hiểu hơn về các yếu tố góp
phần vào sự xuất hiện duy trì của bất bình đẳng giới trong hội ngày nay. Qua việc
phân tích các vấn đề như sự chênh lệch trong việc tiếp cận giáo dục và cơ hội việc làm,
định kiến hội, vai trò truyền thống sự kỳ thgiới nh, chúng ta thể xác định
được các nguyên nhân cụ thể gây ra sự bất bình đẳng giới.
Mục đích thứ hai đánh giá tác động của bất bình đẳng giới n nhân, gia
đình, xã hội và kinh tế. Tìm hiểu về những hệ quả của bất bình đẳng giới giúp chúng ta
nhìn thấy mức độ tổn thương hạn chế y ra, từ việc ảnh hưởng đến sự phát
triển cá nhân, thăng tiến nghề nghiệp, cho đến sự suy yếu của mạng lưới xã hội và tăng
cường bất bình đẳng thu nhập. Đánh giá này cung cấp cơ sở để thể hiện tầm quan trọng
của việc giải quyết bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay.
Mục đích cuối cùng đề xuất các giải pháp chính sách nhằm giảm bớt và loại
bỏ bất bình đẳng giới. Dựa trên những nghiên cứu và phân tích đã được thực hiện, tiểu
luận sẽ đưa ra những khuyến nghị và giải pháp cụ thể, từ các biện pháp giáo dục và xây
dựng nhận thức cho đến việc thay đổi quy định pháp luật và chính sách cung cấp cơ hội
công bằng cho cả nam và nữ. Mục tiêu là tạo ra một xã hội công bằng và bền vững, nơi
mọi nhân, bất kể giới tính, thể phát triển tham gia vào sự phát triển toàn
diện của xã hội.
lOMoARcPSD|36443508
Tổng kết lại, mục đích của tiểu luận "Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay"
tìm hiểu, đánh giá và đề xuất các giải pháp nhằm giảm bớt loại bỏ bất bình đẳng
giới. Qua đó, tiểu luận hướng đến mục tiêu y dựng một hội ng bằng đồng
tâm, nơi mọi nhân hội phát triển đóng góp vào sự phát triển toàn diện
của xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành đề tài tiểu luận "Vấn đề bất nh đẳng giới trong xã hội ngày nay"
một cách tốt nhất, chúng tôi sử dụng một sự kết hợp linh hoạt của nhiều phương pháp
và công cụ nghiên cứu khác nhau:
- Phương pháp phân tích liệu: Xem t các tài liệu sẵn trong kho thông tin
lưu trữ các nguồn khác để nghiên cứu vấn đề một cách chi tiết. Điều này giúp thu
thập số liệu, tư liệu thứ cấp và thậm chí những phân tích, kết luận có sẵn để hỗ trợ cho
quá trình nghiên cứu và xây dựng luận cứ rõ ràng.
- Phương pháp tổng hợp logic: Chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp kết
hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ các kết quả thu được thông qua phân tích,
chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp để kết hợp chúng lại với nhau, nhằm tạo ra
một sự nhận thức rõ ràng và hợp lý về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: Chúng tôi áp dụng phương pháp này để thu thập ý kiến
của các chuyên gia về vấn đề xã hội liên quan. Ý kiến của các chuyên gia thường mang
tính chất thực tiễn giàu kiến thức chuyên môn. Điều y đảm bảo tính thực tiễn
sự đa chiều trong quá trình nghiên cứu.
Bằng việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu y, chúng tôi áp dụng quan
điểm toàn diện và hthống, từ khái quát và mô tả cho đến phân tích và tổng hợp. Chúng
tôi cũng sử dụng các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn để hoàn thiện bài tiểu
luận một cách khách quan nhất thể. Nhờ vào sự kết hợp này, chúng tôi hy vọng đạt
được một cái nhìn toàn diện về vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay.
PHẦN NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM CHUNG.
1.1. Bất bình đẳng xã hội.
1.1.1. Đ nh nghĩa bấất bình đ ng.
lOMoARcPSD|36443508
Tất cả các xã hội đều được đặc trưng bởi sự khác biệt xã hội. Đó là quá trình mà
con người tạo nên khoảng cách do cách ng xử khác nhau bởi vị thế, vai trò cùng những
đặc điểm khác. Quá trình đó chuẩn bị cho bất bình đẳng hội, điều kiện con
người hội không ngang bằng nhau về sdụng của cải, quyền lực uy tín. Bất
bình đẳng là một hiện tượng mang nh kế thừa ở mọi thời đại tồn tại trong mọi xã
hội do cấu hội mang lại. Bất bình đẳng không phải một hiện tượng tự nhiên,
tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các mối quan hệ trong hội, tồn tại “khi một
nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác.” Trong sự vận động và phát
triển của xã hội thì bất bình đẳng xã hội luôn là một vấn đề trung tâm. Bất bình đẳng
hội hình thành nên một hệ thống tồn tại song song với sự phát triển qua những xã hội
khác nhau. Điều đó cũng cho ta nhận biết được rằng hệ thống bất bình đẳng sẽ khác
nhau trong những hội khác nhau nguyên nhân chính do thchế chính trị
hoàn cảnh, điều kiện sinh sống của từng nơi quyết định.
Từ khái niệm bất bình đẳng đã nêu ở phần trên, ta có thể suy ra bất bình đẳng
hội sự không bằng nhau về mặt hội, tức sự khác nhau về những lợi ích, hội
về mặt vật chất lẫn tinh thần cũng như là thỏa mãn các lợi ích đó của cá nhân trong một
nhóm xã hội hay nhiều nhóm xã hội khác nhau.
1.1.2. Phn loi bấất bình đng.
Bất bình đẳng thể được phân thành 2 loại: bất bình đẳng mang tính tự nhiên
và bất bình đẳng mang tính xã hội.
- Bất bình đẳng mang tính tự nhiên: sự khác biệt của nhân về một hoặc một
sốđặc điểm sẵn có như giới, tuổi, chủng tộc, trí lực,…
- Bất bình đẳng mang tính hội: là sự phân công lao động dẫn đến phân tầng, tạo
ralợi ích khác nhau giữa các cá nhân.
1
Theo quan điểm của các nhà xã hội học nghiên cứu về cơ cấu xã hội thì bất bình
đẳng xã hội có vai trò hết sức quan trọng:
i. Bất bình đẳng được xem như điều kiện để tổ chức xã hội. ii.
Bất bình đẳng là cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
iii. Bất bình đẳng đảm bảo cho đời sống và phát triển xã hội.
1
HaNoi1000, “Bất bình đẳng hội là gì? Nguyên nhân, Các quan điểm”, https://hanoi1000.vn/bat-binh-dangxa-
hoi-la-gi-nguyen-nhan-cac-quan-diem, ngày truy cập 11/03/2022.
lOMoARcPSD|36443508
Bất bình đẳng xã hội là một khái niệm rất rộng, nó bao hàm cả công bằng xã hội
bất công bằng hội. Công bằng hội là sự bất bình đẳng hợp lý, hợp pháp, chủ
yếu dựa vào sự khác biệt khách quan, tự nhiên giữa các thành viên trong xã hội về mặt
năng lực (thể chất, trí tuệ), sự khác biệt về i tài, cái đức sự cống hiến, đóng góp
thực tế của mỗi cá nhân cho xã hội.
Bất công bằng hội sự bất bình đẳng bất hợp lý, bất hợp pháp, không dựa
trên sự khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân, cũng không chủ yếu được tạo ra do sự khác
nhau về tài đức sự đóng góp cống hiến một cách thực tế của mỗi người cho hội
mà dựa vào những hành vi trái pháp luật, tham nhũng, lừa gạt, trộm cắp, buôn bán phi
pháp để trở nên giàu có, luồn lọt, xu nịnh, để có vị trí cao trong xã hội hoặc lười biếng,
ỷ lại để rơi vào sự nghèo khổ, hèn kém.
Tóm lại, có thể kết luận rằng, bất bình đẳng xã hội mang theo cả mặt tích cực
tiêu cực. Một mặt, đó động lực thúc đẩy sự tiến bộ của hội, góp phần ổn định
tạo ra bộ mặt xã hội, mặt khác đây cũng là nguyên nhân gây tích tụ bất bình xã hội, cản
trở sự phát triển chung của cộng đồng. Do đó, nghiên cứu về bất bình đẳng hội
việc m cần thiết nhằm củng cố, tổ chức hội ngày một công bằng, dân chủ, văn
minh, tiến bộ hơn.
1.1.3. Các quan đim vềề bấất bình đng xã hi.
Bất bình đẳng có phải là một hiện tượng xã hội không thể nào tránh khỏi? Xung
quanh vấn đề này, có nhiều quan điểm khác nhau. Dưới đây là một số quan điểm:
+ Quan điểm dựa vào yếu tố sinh học của cá nhân:
Bất bình đẳng hội hiện tượng hội không thể nào tránh khỏi - đây vấn đề
nhiều quan điểm khác nhau. quan điểm cho rằng, bất bình đẳng luôn hiện diện bởi
sự khác biệt nhân cách giữa những nhân. Nếu một hội mở nếu con người
khác nhau về tài năng và nhu cầu thì điều đó sẽ hàm ý rằng bất bình đẳng là không thể
tránh được. Đó một thực tế của hội. Một số bất nh đẳng đến như kết quả không
thể tránh về bất bình đẳng sinh học của kỹ năng, thể chất, khả năng tinh thần
những khía cạnh của nhân cách.
2
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aritstốt (384– 322 TCN)
cho rằng những khác biệt tự nhiên giữa các nhân; thực tế, vẫn còn tồn tại những
2
Kenneth Cauthen (1987), The Passion for Equality, NXB Rowman & Littlefield, tr.8.
lOMoARcPSD|36443508
khác biệt trong kiểu phân chia giới như kết quả không thể tránh được của bất bình
đẳng: “Đàn ông bản chất là thống trị, đàn bà là bị trị, và đó là một luật lệ”. Sự thống trị
và sự thành đạt cao của nam giới là khả năng không thể đảo ngược, bởi có những khác
biệt về sinh học giữa nam và nữ.
3
+ Quan điểm dựa vào yếu tố kinh tế:
Một số nhà hội học khác đã cho rằng bất bình đẳng không thể tránh khỏi;
nhưng họ lý luận nguyên nhân của nó là do xã hội những nhiệm vụ này cần thiết n
những nhiệm vụ khác. Khả năng thực hiện những nhiệm vụ y khác nhau. Họ lập luận
rằng bất bình đẳng xã hội về lợi ích giữa các cá nhân cần thiết để thúc đẩy người tài
nhất thực hiện những nhiệm vụ kkhăn nhất. Do vậy trong những điều kiện đó, không
thể thủ tiêu bất bình đẳng, vì bình đẳng có nguy hiểm cho xã hội.
Có quan điểm cho rằng bất bình đẳng chủ yếu là do cấu trúc của hệ thống xã hội
gây ra chứ không phải do sự khác biệt về tài năng, đặc điểm và nhu cầu cá nhân.
Nguồn gốc của bất bình đẳng liên quan tới sở hữu nhân về của cải. Những đặc
điểm về kinh tế, chính trị và thị trường lao động tạo ra những khác biệt trong thu nhập
và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các nhân trong cơ cấu hội gây ra
bất bình đẳng kinh tế.
4
+ Quan điểm của Karl Marx:
Học thuyết của Karl Marx dựa trên nghiên cứu các học thuyết kinh tế, được coi nền
tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp đóng vai trò quan trọng trong mọi khía
cạnh của xã hội. Marx khẳng định rằng "Những tưởng thống trị của một thời đại luôn
tưởng của giai cấp thống trị," phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. luận
của Marx xoay quanh hoạt động tổ chức sản xuất phân công lao động trong hội,
cùng với việc phân tích cấu trúc xã hội, nhằm làm sáng tỏ tính chất giai cấp và bất bình
đẳng trong quan hệ xã hội. Từ việc phân tích cấu trúc xã hội này, ta có thể rút ra hai kết
luận quan trọng. Đầu tiên, cần loại bỏ thay thế chế độ sở hữu nhân bằng chế độ sở
hữu hội để y dựng một hội phát triển. Thứ hai, hội học cần tập trung vào
phân tích cấu trúc xã hội để xác định ai là những người hưởng lợi và ai là những người
3
Steven Goldberg (1973), The Inevitability of Patriarchy, NXB William Morrow and Company, tr.133.
4 Jean-Jacques Rousseau (1753), Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng.
lOMoARcPSD|36443508
chịu thiệt từ cách tổ chức và cơ cấu xã hội hiện tại. Tóm lại, cấu trúc xã hội, phân tầng
xã hội và bất bình đẳng xã hội là những đề tài cơ bản của xã hội học hiện đại.
+ Quan điểm của Max Weber :
Max Weber, một nhà xã hội học khác với Marx, không xem mọi cấu trúc xã hội
như một hệ thống bất bình đẳng dựa trên giai cấp. Theo Weber, sự phân hạng trong
hội phụ thuộc vào các yếu tố đặc biệt về địa vị hội dựa trên nền tảng tôn giáo. Ông
nhấn mạnh rằng quyền lực kinh tế thể phát sinh từ quyền lực được xây dựng trên các
nền tảng khác. Địa vị hội uy tín hội thể bắt nguồn từ quyền lực kinh tế,
nhưng không nhất thiết duy nhất. dụ, một người giàu có nhưng không có kiến thức
hay giáo dục thể không đạt được vtrí cao trong hội, trong khi ngược lại, địa v
có thể là cơ sở cho quyền lực chính trị. Weber cho rằng đây là một vấn đề lịch sử và xã
hội cần được phân tích để tìm ra nguyên nhân thực sự của bất bình đẳng xã hội.
Quan điểm của Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường thay vì tái sản
xuất là nền tảng kinh tế của giai cấp. Theo Weber, nguyên nhân chính gây ra bất bình
đẳng trong xã hội tư bản là sự khác biệt về khả năng thị trường. Điều này có nghĩa là
khả năng chiếm lĩnh thị trường của mỗi cá nhân phụ thuộc vào tri thức, tài năng và k
năng nghề nghiệp của họ.
1.1.4. Cơ s t o nn s bấất bình đng.
Giới tính một khái niệm hội được xác định bởi các quy tắc, giá trị vai
trò mà hội gán cho các cá nhân dựa trên đặc điểm sinh của họ. Tuy nhiên, bất bình
đẳng giới tính vẫn là một vấn đề lớn trong xã hội hiện đại của chúng ta.
sở tạo nên bất bình đẳng giới tính trong hội bao gồm những giá trị, quan
niệm, vai trò xã hội và các quy tắc được đặt ra cho mỗi giới tính. Trong hội, nam giới
thường được xem mạnh mẽ, năng động quyền lực, trong khi nữ giới thường bị
xem yếu đuối, nhạy cảm nên vai trò chăm sóc gia đình. Điều y đã tạo ra sự
bất bình đẳng giới tính trong hội ảnh ởng đến cuộc sống của các nhân, đặc
biệt là những người không tuân thủ quy tắc xã hội đối với giới tính.
Các ảnh hưởng của bất bình đẳng giới tính trên hội rất lớn đa dạng, bao
gồm cả ảnh ởng đến kinh tế, sức khỏe, hạnh phúc sự phát triển nhân. Các nghiên
cứu đã chỉ ra rằng, phụ nữ thường bị thiệt hại hơn so với nam giới về mặt kinh tế, đặc
lOMoARcPSD|36443508
biệt là trong những nền kinh tế phát triển ít. Họ cũng có nguy cơ cao hơn bị bạo lực và
xâm hại tình dục, thường không được đối xử công bằng trong việc tuyển dụng
thăng tiến trong công việc. Ngoài ra, những người thuộc cộng đồng LGBT (Lesbian,
Gay, Bisexual, Transgender) cũng thường phải đối mặt với sự thị và phân biệt đối xử
từ xã hội, gây ra áp lực tâm lý và ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
Để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính trong xã hội, trước hết chúng ta cần
hiểu sở tạo nên sự bất nh đẳng y. Một trong những cơ sở quan trọng nhất
tưởng hội hóa giới tính, tức là quan niệm hội về vai trò đặc tính của từng
giới tính. Tư tưởng này đã được tạo dựng và truyền tai từ thế kỷ trước đến nay, khi
xã hội đặt giá trị và yêu cầu khác nhau cho nam và nữ.
dụ, đối với phụ nữ, xã hội thường kỳ vọng họ phải có ngoại hình đẹp, biết nấu
ăn, làm việc nhà, chăm sóc gia đình, trong khi đối với nam giới thì yêu cầu thường
phải mạnh mẽ, can đảm, làm chủ được tình hình, kiếm tiền để nuôi gia đình. Các quan
niệm y đã được y dựng theo thời gian trở thành một phần không thể thiếu của
xã hội.
Tuy nhiên, những quan niệm này đã tạo ra sự bất bình đẳng giới tính, khiến cho
phụ nữ và những người khác không phù hợp với quy chuẩn giới tính của xã hội bị kì thị
và phân biệt đối xử. Chính vì thế, để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính, chúng ta
cần xây dựng một xã hội đa dạng tôn trọng skhác biệt giới tính. Để đạt được điều
này, chúng ta cần tạo ra một môi trường giáo dục và văn hóa, nơi mà những quan niệm
truyền thống về giới tính không còn được coi chính thống. Chúng ta cần truyền tải
thông điệp rằng mỗi người đều quyền được sống theo cách họ mong muốn, không
phải dựa trên giới tính mà xã hội quy định.
Bên cạnh đó, chúng ta cần cung cấp hỗ trợ và tạo điều kiện cho những người
thuộc cộng đồng LGBT, những người thường là nạn nhân của sự kì thị và phân biệt đối
xử. Chúng ta cần đưa ra các chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của họ, đồng thời
tạo ra một môi trường công bằng và đa dạng để họ có thể tự do thể hiện bản thân mình
mà không sợ bị kì thị hay phân biệt đối xử. Ngoài ra, cần phải tăng cường giáo dục về
giới tính và sự đa dạng giới tính, nhằm nâng cao nhận thức và kiến thức của mọi người
về vấn đề này, từ đó giảm thiểu sự kì thị và phân biệt đối xử.
Tuy nhiên, giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính không thể chỉ dừng lại
những biện pháp trên mà còn cần phải thay đổi cách suy nghĩ và tư duy của mọi người.
lOMoARcPSD|36443508
Chúng ta cần phải thay đổi những quan điểm sai lầm, giảm thiểu sự kì thị và phân biệt
đối xử trong hội, xây dựng một cộng đồng văn minh, đa dạng tôn trọng giới
tính. Chỉ khi chúng ta đồng lòng hành động, thay đổi duy và thay đổi cách suy nghĩ
của mọi người, chúng ta mới thể giải quyết được vấn đề bất bình đẳng giới tính
xây dựng một xã hội công bằng và bình đẳng cho tất cả mọi người.
1.2. Bất bình đẳng giới.
1.2.1. Khái nim cơ bn vềề bấất bình đng gii.
Bất bình đẳng giới một nh trạng hội phổ biến, cho thấy sự khác biệt
không công bằng giữa các giới tính. bao gồm những định kiến hội, quy định pháp
luật, thái độ phân biệt giới tính và những hành động kì thị và phân biệt đối xử.
Bất bình đẳng giới thường xảy ra ở mọi lĩnh vực trong xã hội, từ công việc, giáo
dục, chính trị, gia đình đến cuộc sống cá nhân. dụ, trong công việc, phụ nữ thường
bị trả lương thấp hơn so với nam giới, dù có cùng trình độ và kinh nghiệm. Trong giáo
dục, nhiều trường học vẫn các quy tắc phân biệt giới tính, giới hạn sự lựa chọn của
học sinh dựa trên giới tính của họ. Trong gia đình, phụ nữ thường bị đặt vào vị trí kém
hơn so với nam giới phải chịu trách nhiệm chăm sóc gia đình và nuôi dạy con cái
một cách nặng nhọc hơn.
Bất bình đẳng giới ảnh hưởng không chỉ đến những người bị phân biệt đối xử,
mà còn đến toàn bộ hội. Nó làm giảm hiệu quả và sản lượng lao động, tạo ra những
căng thẳng, xung đột và gây ra những vấn đề về tâm lý và sức khỏe của các nạn nhân.
1.2.2. Quan đim ca ch nghĩa Mác - Lnin vềề bình đng gii.
Chủ nghĩa Mác - Lênin một trường phái tưởng chính trị kinh tế ảnh
hưởng lớn trong lịch sử thế giới. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng
giới được hình thành dựa trên quan niệm về vai trò của giai cấp cách bất bình
đẳng giới phản ánh bất bình đẳng kinh tế, xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bất bình đẳng giới là một hình thức
bất bình đẳng xã hội, phản ánh sự chia rẽ giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin cho rằng bất bình đẳng giới được tạo ra bởi cấu trúc giai cấp và tầng
lớp của hội. Theo đó, bất bình đẳng giới không phải một hiện tượng độc lập,
được phản ánh và bị tác động bởi các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị khác nhau.
lOMoARcPSD|36443508
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng để giải quyết vấn đbất bình đẳng giới, cần
phải xóa bỏ các yếu tố y ra sự chia rẽ phân biệt đối xử giữa các tầng lớp giai
cấp trong hội. Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng coi trọng việc giáo dục và nâng
cao nhận thức của nhân dân về bình đẳng giới, nhằm thay đổi ởng tạo ra một
tầng lớp lao động phản đối bất bình đẳng giới.
Trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lãnh đạo cách mạng nhiều quốc gia,
đưa ra nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới. Các biện pháp này bao
gồm việc phân bổ i nguyên hội công bằng hơn giữa các giai cấp tầng lớp,
đồng thời đưa ra các chính sách về giáo dục và đào tạo để tăng cường nhận thức và giải
quyết vấn đề bất bình đẳng giới.
Tuy nhiên, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới cũng không
được chấp nhận hoàn toàn bởi một số người. Một số nhà phê bình cho rằng quan điểm
này thiếu nhạy cảm với vấn đề đa dạng giớinh bất bình đẳng giới định kiến trong
xã hội hiện đại.
Ngoài ra, trong thực tế, các chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của người
đồng tính, người chuyển giới, những người khác thuộc cộng đồng LGBT vẫn còn
nhiều hạn chế và khó khăn. Những người này vẫn thường bị kì thị và phân biệt đối xử
trong nhiều lĩnh vực của đời sống, bao gồm cả giáo dục, công việc, y tế, và gia đình.
vậy, chúng ta cần cùng nhau đấu tranh và thực hiện các biện pháp để đảm bảo
bình đẳng giới và đa dạng giới tính, bao gồm việc giáo dục, tuyên truyền, đưa ra chính
sách luật pháp bảo vệ quyền lợi của người LGBT, cung cấp hỗ trợ cho những
người bị phân biệt đối xử thị. Chỉ khi tất cả chúng ta đều được đối xử bình
đẳng và có cơ hội phát triển sẽ xã hội được coi là văn minh và phát triển.
1.2.3. Tư ưở tng Hồề Chí Minh vềề bình đng gii.
thể thấy, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa sử dụng cụm từ “bình đẳng
giới”. Người chỉ bàn vvấn đề giải phóng phụ nữ thực hiện nam nữ bình quyền.
Nhưng đây cũng chính nội dung cốt lõi của vấn đề bình đẳng giới hiện nay thế
giới Việt Nam đang quyết tâm theo đuổi một hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Những tư tưởng cốt lõi về bình đẳng giới của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở một s
luận điểm sau:
lOMoARcPSD|36443508
- Thứ nhất, phụ nữ là phân nửa xã hội, muốn xây dựng chủ nghĩa hội phải giải phóng
phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền. Là học trò xuất sắc của C.Mác và V.I.Lênin, am
hiểu lịch sử dân tộc và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt
thêu thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh người Việt Nam đầu tiên gắn
liền cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc với cuộc đấu tranh cho bình đẳng, tự do phát
triển của phụ nữ Việt Nam. Trong những năm đi bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã
có dịp m hiểu nhiều cuộc cách mạng diễn ra trên thế giới. Người rút ra kết luận, chỉ có
Cách mạng Tháng ời Nga cuộc cách mạng “đến nơi”, hay còn gọi cuộc cách
mạng triệt để, nghĩa đem lại quyền m chủ hội thực sự cho người dân. “Chính
nhờ cuộc cách mạng này cơ sở của quyền tự do chân chính quyền bình đẳng thực
sự đã được đặt ra cho loài người. Chính nhờ cuộc cách mạng này mà sự giải phóng phụ
nữ sẽ giá trị có những ý nghĩa đầy đủ, trọn vẹn” vậy, Hồ Chí Minh đã lựa chọn
con đường cách mạng sản, nhằm giành lại độc lập hoàn toàn cho dân tộc, ấm no tự
do hạnh phúc thực sự cho nhân dân để thực sự giải phóng cho phụ nữ thoát khỏi cả
ách áp bức dân tộc lẫn ách áp bức hội. Người luôn động viên phnữ tham gia vào
sự nghiệp cách mạng cùng dân tộc, bởi theo Người, giải phóng phụ nữ - bản thân
cũng là một cuộc cách mạng, là một trong những mục tiêu lớn của cách mạng, nó luôn
gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trong Văn kiện thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam m 1930, Hồ Chí Minh chỉ nhiệm vụ của cách mạng
không chỉ giành độc lập cho dân tộc,... các quyền dân chủ tự do cho nhân dân, mà còn
nhằm “thực hiện nam nữ bình quyền”. Người nhấn mạnh rằng dưới chế độ phong kiến
thực dân, phụ nữ bị áp bức tàn tệ. Ngoài xã hội thì phụ nữ bị xem khinh là nô lệ. Ở gia
đình thì họ bị kìm hãm trong xiềng xích “tam tòng”; cũng dưới chế độ thực dân, phong
kiến, nhân n ta bị áp bức, bóc lột thì phụ nữ ta bị áp bức, bóc lột nặng nề hơn... “Điều
đó chứng tỏ rằng quyền lợi của đàn bà con gái An Nam chúng ta làm cách mạng”.
Từ cảm nhận sâu sắc nỗi “khổ nhục” của người phụ nữ dưới chế độ thực dân phong
kiến, Người càng ý thức hơn chính phụ nữ là lực lượng “một nửa” thành công của cách
mạng. Người luôn nhấn mạnh khả năng cách mạng của phụ nữ và sớm nhận thấy nhân
tố góp phần thắng lợi của cuộc cách mạng ấy chính là phụ nữ: “Xem trong lịch sử cách
mệnh, chẳng có lần nào là không có đàn bà, con gái tham gia” và “An Nam cách mệnh
cũng phải nữ giới tham gia mới thành ng”. Người những luận điểm thể hiện
lOMoARcPSD|36443508
tầm nhìn chiến lược khi đặt vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam
nữ trong ơng quan phát triển của xã hội mới, của chủ nghĩa xã hội: “Nói phụ nữ là nói
phân nửa hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người.
Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa hội chỉ một nửa”. Đánh giá cao
vai trò của phụ nữ khi nhìn nhận họ là lực lượng lao động đông đảo của xã hội, Người
còn thấy rõ khả năng làm việc không thua kém nam giới của phụ nữ. Người nêu những
tấm gương tiêu biểu của phụ nữ như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyễn Thị Minh Khai,
Nguyễn Thị Định... Người nói, trên thế giới chưa có nơi nào phụ nữ làm Phó Tổng Tư
lệnh như miền Nam nước ta. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, kính trọng phụ nữ,
thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, bảo đảm quyền lợi của phụ nữ là bản chất của chế
độ ta; trong đó, vị trí xã hội của chị em được Người đặc biệt quan tâm.
4
Thứ hai, giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền nhiệm vụ của Đảng,
Nhà nước và bản thân chị em phụ nữ. Người luôn theo dõi sát sao và tạo mọi điều kiện
cho phụ nữ tham gia vào sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc vày dựng nhàớc.
Đặc biệt, Người rất quan tâm đến công tác phát triển đảng trong quần chúng phụ nữ.
Khi làm việc với các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương, Người luôn chú ý đến
số lượng cán bộ nữ. Người hiểu khả năng to lớn của phnữ trong các lĩnh vực của
đời sống hội: “Dưới chế độ hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ nữ đã trở thành cán bộ
chuyên môn các ngành cán bộ lãnh đạo, làm giám đốc phó giám đốc các nghiệp,
chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp, chủ tịch y ban hành chính, thư chi bộ đảng, v.v..”
và Người vui mừng trước việc ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào công việc quản
lý: “Từ ngày nước ta được giải phóng đến nay, phụ nữ đều tiến bộ rõ về mọi mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, hội. Nhưng một trong những tiến bộ rõ rệt nhất phụ nữ ta hiện
nay tham gia chính quyền ngày càng nhiều”. Thực hiện nam nữ bình quyền, theo Hồ
Chí Minh: “Đó là một cuộc cách mạng khá to khó. trọng trai khinh gái một thói
quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi
tầng lớp xã hội”. Để thực hiện 100% bình quyền, bình đẳng nam nữ, Hồ Chí Minh nhắc
nhở chị em “phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xóa bỏ
tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập”10. Người chỉ cho các
4
Tạp chí tổ chức Nhà nước, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_su_van_dung_cua_Dang_C
ong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016
lOMoARcPSD|36443508
cấp ủy đảng và chính quyền “phải có phương pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao hơn
nữa địa vị của phụ nữ”. Quan tâm tới vị trí của phụ nữ trong xã hội, Hồ Chí Minh cũng
đồng thời nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, một trong những nhiệm vụ của phụ nữ dưới
chế độ ta là phải “hăng hái tham gia chính quyền”. Người còn nói, nếu cán bộ lãnh đạo
là nữít, đấy là một thiếu sót của Đảng. Nguyên nhân của tình trạng phụ nữ ít được
tham gia lãnh đạo quản lý, theo Người vì: “Nhiều người còn đánh giá không đúng
khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai” Không chỉ phê bình
những ởng hẹp hòi đối với phụ nữ, Người còn đòi hỏi phải tích cực sửa chữa. Người
đã đặt trách nhiệm của Đảng đối với sự phát triển của phụ nữ. Người khẳng định: Phải
giải phóng phụ nữ thực sự, giải phóng phụ nữ thì bằng pháp luật, chính sách, biện pháp
cụ thể: “Từ nay, các cấp đảng, chính quyền địa phương khi giao công tác cho phụ nữ,
phải căn cứ vào trình độ của từng người và cần phải tích cực giúp đỡ phụ nữ nhiều hơn
nữa”, “phải thực sự giải phóng phụ nữ tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”... “Đảng
Chính phủ cần phải kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc giúp đỡ để ngày
thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ
thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự
cho phụ nữ”. Hồ Chí Minh còn đặt vấn đề vphụ nữ, phát huy vai trò và phát triển năng
lực sáng tạo của phụ nữ, coi đó là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó sự tự vươn
lên của chị em phụ nữ: Đảng Chính phủ ta cần phải kế hoạch thiết thực để bồi
dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để người phụ nữ phụ trách ngày càng thêm nhiều mọi ng
việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân người phụ nữ thì phải cố gắng. Đó là một cuộc
cách mạng đưa đến quyền bình đẳng cho phụ nữ.
5
Như vậy, bình đẳng giới theo tưởng của Hồ Chí Minh: Thứ nhất, phụ nữ
vai trò rất quan trọng trong xã hội không chỉ vì họ là lực lượng lao động to lớn, mà còn
họ những người tham gia y dựng, cải tạo hội. Ngoài thiên chức làm mẹ, thì
khả năng làm việc, sức sáng tạo khi làm việc cho cộng đồng của phụ nữ không thua
kém đàn ông. Thứ hai, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội sẽ không mang
tính cách mạng đầy đủ nếu không thực sự giải phóng phụ nữ, bởi vì, họ một nửa nhân
loại, một nửa xã hội. Thứ ba, dưới chế độ ta - chế độ mọi người dân đều là chủ xã hội,
5
Tạp chí tổ chức Nhà nước, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_su_van_dung_cua_Dang_C
ong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016
lOMoARcPSD|36443508
nam nữ bình đẳng về vị trí, bình đẳng về quyền lợi, thì phụ nữ phải có vị trí xứng đáng
với vai trò của mình. Lịch sử dân tộc ta cũng đã chứng minh rằng, phụ nữ Việt Nam có
thể làm được làm tốt mọi công việc to lớn mà lịch sử đòi hỏi, đất nước trao cho. Thứ
tư, cần phải xóa bỏ tàn phong kiến trọng nam khinh nữ, coi thường, xem nhẹ khả
năng làm việc hội của phụ nữ; chỉ vậy mới thực sự giải phóng phụ nữ, để cuộc
cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo có ý nghĩa cách mạng đầy đủ, có tính
nhân văn sâu sắc.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ
bình đẳng đã trở thành tưởng cách mạng, vừa thể hiện ý thức chính trị, lòng nhân ái
vừa thể hiện giá trị văn hóa, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản của Người.
2. Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay.
2.1. Các thực trạng liên quan đến bất bình đẳng giới trong xã hội.
2.1.1. T l gii tính khi sinh (SRB).
Một trong những chỉ số quan trọng được Tổng cục Thống tiến nh điều tra
trong cuộc Tổng điều tra dân số nhà năm 2019 Tsố giới nh khi sinh - SRB
(Chỉ số SRB phản ánh cân bằng giới tính của số trai gái khi được sinh ra. Tỷ
số y thông thường là 104-106 bé trai/100 gái sinh ra sống). Bất kỳ sự thay đổi đáng
kể nào của SRB chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can thiệp
có chủ ý sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sổn định dân số
của quốc gia và toàn cầu.
lOMoARcPSD|36443508
(Phạm Thị Huyền, Bất bình đẳng giới từ những thách thức mang tính văn hoá tình
trạng mất cân bằng giới tính, https://cpcs.vn/ty-so-gioi-tinh-khi-sinh-bat-binh-
thuongcua-viet-nam-va-nhung-hau-qua-co-the-xay-ra-d38282.html, ngày truy cập 14
9
2021)
Theo Tổng cục Thống kê, SRB của Việt Nam có xu hướng tăng hơn so với mức
sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay, đưa ra bằng chứng về mất cân bằng giới nh
khi sinh tại Việt Nam. Trong đó, SRB năm 2019 giảm so với m 2018 nhưng vẫn
mức cao (năm 2018: 114,8 bé trai/100 bé gái;m 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái).
Sự gia tăng bất thường về SRB của Việt Nam trong những năm gần đây đang là
mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách. Theo đó, những cảnh báo về hệ lụy
của sự mất cân bằng giới tính khi sinh sự quyết liệt thực hiện c chính sách nhằm
xóa bỏ sự can thiệp chủ đích trong lựa chọn giới tính khi mang thai Việt Nam trong
thời gian qua chưa đem lại hiệu quả; tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh chưa
được khắc phục.
Kết quả điều tra cho thấy, SRB của khu vực thành thị thấp hơn nông thôn, tương
ứng là 110,8 và 111,8 bé trai/100 bé gái. SRB giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể,
SRB cao nhất Đồng bằng sông Hồng (115,5 trai/100 gái) thấp nhất Đồng
bằng sông Cửu Long (106,9 trai/100 gái). Sự khác biệt của SRB giữa khu vực
thành thị nông thôn thuộc Đồng bằng sông Hồng cũng cao nhất cả nước. SRB của
Trung du và miền núi phía Bắc năm 2009 là 108,5 bé trai/100 bé gái, tăng lên 114,2 bé
trai/100 gái năm 2019. SRB của Đồng bằng sông Hồng năm 2009 115,3 trai/100
bé gái, tăng nhẹ lên 115,5 trai/100 gái năm 2019. Qua 10 năm, mức tăng SRB của
Trung du và miền núi phía Bắc nhiều hơn mức tăng SRB của Đồng bằng sông Hồng.
thể thấy, mất cân bằng giới tính khi sinh Việt Nam do một snguyên
nhân như: Sự ưa thích sinh con trai trong bối cảnh giảm sinh, n hóa Nho giáo với
phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên cũng
như đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình hội tại mỗi vùng, miền và việc
tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới tính thai nhi khi mang thai
hoặc chuẩn đoán giới tính thai nhi dẫn tới nạo phá thai vì lý do lựa chọn giới tính,
lOMoARcPSD|36443508
Việc lựa chọn giới tính trước khi sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới sâu
sắc. Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy tới cấu trúc gia
đình các vấn đề hội trong tương lai của tình trạng mất cân bằng giới tính hiện nay,
tình trạng thiếu hụt số trẻ em gái quan sát được gần đây nhiều quốc gia sẽ dẫn đến
tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi trong tương lai.
Tổng cục Thống kê nhận định, cấu trúc dân số trong những thập kỷ tới sẽ mang
dấu ấn của việc lựa chọn giới tính hiện tại, với quydân số nam vượt trội trong một
thời gian dài. Theo các nhà khoa học hội, tác động chính của hiện tượng mất cân
bằng giới tính khi sinh sẽ liên quan tới qtrình hình thành cấu trúc gia đình, đặc
biệt là hệ thống hôn nhân.
Nam giới trẻ tuổi sẽ bị thừa so với nữ do tỷ lệ nữ giới đang giảm dần trong
cùng một thế hệ và kết quả là họ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng
khi tìm kiếm bạn đời. Trì hoãn hôn nhân trong nam giới hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc
thân những khả năng thể xảy ra trong tương lai do tình trạng thiếu phụ nữ trong
độ tuổi kết hôn. Điều này sẽ tác động ngược lại hệ thống gia đình trong tương lai.
Lựa chọn giới tính trước khi sinh nguyên nhân trực tiếp của hiện ợng mất
cân bằng giới tính khi sinh. Do đó, số liệu theo dõi các diễn biến của SRB cần thiết,
nhằm đưa ra các can thiệp kịp thời về chính sách và chương trình.
6
2.1.2 Bấất bình đng trong giáo dc.
Giáo dục phương tiện hiệu quả nhất để con người gia tăng kiến thức sự tự
tin, đủ khả năng vươn lên, thay đổi cuộc sống, gia tăng hội phúc lợi. Tuy nhiên,
phụ nữ trẻ em gái chưa được tiếp cận giáo dục công bằng như nam giới trẻ em
nam do nghèo đói, quy tắc văn hóa thông lệ, định kiến. Theo tổ chức Women
WorldWide Web (W4), trên thế giới còn hàng triệu phụ nữ trẻ em phải chịu nghèo
đói không được đi học, hai phần ba số người chữ toàn cầu phụ nữ (Women
WorldWide Web, 2018). Giáo dục cho phụ nữ trẻ em gái cách tốt nhất đtrao
quyền cho nhóm đối tượng y, giúp bản thân họ đầy đủ kiến thức khả năng để
quyết định tương lai của mình, có công việc và thu nhập tôt hơn, tăng cường khía cạnh
6
Nguyễn Văn Phái, “Tỷ số giới tính khi sinh bất bình thường của Việt Nam và những hậu quả có thể xảy ra”,
https://kinhtedothi.vn/ty-so-gioi-tinh-khi-sinh-bat-binh-thuong-cua-viet-nam-va-nhung-hau-qua-co-the-
xayra.html, ngày truy cập 09/09/2021.
lOMoARcPSD|36443508
kinh tế hội cho gia đình, hòa nhập cống hiến cho hội nhiều hơn đóng góp
tốt hơn cho phúc lợi xã hội. Trong gia đình, một người mẹ được đi học sẽ nuôi dạy con
cái cả về giáo dục và sức khỏe tốt hơn, tạo ảnh hưởng tích cực trên phạm vi gia đình và
cộng đồng.
Tỷ lệ nhập học đúng tuổi tăng theo thời gian, nhưng nữ vẫn chịu thiệt thòi hơn
nam trong tiếp cận giáo dục phổ thông. Hình 1 cho thấy trong giai đoạn 2010-2016, tỷ
lệ nhập học đúng tuổi của cả nam và nữ tăng và nhìn chung đạt được bình đẳng giới về
giáo dục tiểu học. m 2016 khoảng 93,1% trẻ em nam 93,2% trẻ em nữ trong
độ tuổi 6-10 tuổi tham gia học tiểu học. Với hai bậc học cao hơn (trung học sở--
THCS THPT—THPT), khoảng cách giới đã được thu hẹp, nhưng vẫn còn do tlệ
gia tăng nữ nhập học đúng tuổi thấp hơn nam.
(Tỷ lệ nhập học đúng tuổi của nam nữ (%), Diễn biến bình đẳng giới trong giáo
dục những năm vừa qua, http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx? newid=21121,
ngày truy cập 15–72022)
Về bằng cấp cao nhất đạt được, sự dịch chuyển đáng khích lệ cả hai giới
theo hướng t lệ người không có bằng cấp hoặc bằng tiểu học giảm, tlệ đạt bằng
cấp từ THCS trở lên tăng trong giai đoạn 2010-2016. Tỷ lệ nữ không bằng cấp vẫn còn
cao, năm 2016 vẫn còn 22,4% nữ giới không bằng cấp, cao hơn con số 19,8% của
nam giới. Tỷ lệ người có bằng cấp từ THCS trở lên tăng, đặc biệt với giáo dục chuyên
nghiệp từ cấp cao đẳng (Hình 2). Điều y một mặt thể hiện hội giáo dục mở rộng
hơn cho mọi đối ợng, mặt khác cho thấy xu thế giáo dục trong những năm gần đây
khi phần lớn học sinh tốt nghiệp THPT thi tuyển vào bậc cao đẳng, đại học thay vì tham
gia học nghề. Tuy nhiên, tỷ lệ nữ đạt được bằng cấp này đều thấp hơn nam.
lOMoARcPSD|36443508
(Bằng cấp cao nhất đạt được của nam nữ (%), Diễn biến bình đẳng giới trong giáo dục
những năm vừa qua, http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?newid=21121, ngày
truy cập 15–72022)
Tóm lại, nhờ nỗ lực các chính sách của Chính phủ, hội tham gia giáo dục
được mở rộng cho cả nam nữ. Tuy khoảng cách về t lệ tiếp cận bằng cấp giáo
dục đạt được giữa hai giới đã giảm, phnữ trẻ em gái vẫn thiệt thòi hơn trong tiếp
cận giáo dục so với nam giới trẻ em trai. Cần có các chính sách mạnh mẽ hơn để đến
năm 2020 đạt được mục tiêu về bình đẳng giới trong giáo dục.
7
2.1.3 Bấất bình đng trong hn nhấn và gia đình.
Điều tra quốc gia bạo lực với phụ nữ được Bộ Lao động-Thương binh và hội,
Tổng cục Thống kê, Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam thực hiện năm 2019, công
bố năm 2020 cho thấy, năm 2019, có 31,6% phụ nữ phải chịu ít nhất một hình thức bạo
lực trong 12 tháng (kể từ lúc điều tra). Cứ 3 phụ nữ thì có gần 1 người (32%) bị chồng
bạo lực thể xác hoặc bạo lực tình dục.
Có 90,4% phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác và/hoặc tình dục không tìm kiếm sự
giúp đỡ, chỉ có 4,8% tìm kiếm sự giúp đỡ của công an.
Năm 2019, bạo lực gia đình với phụ nữ gây thiệt hại 1,8% GDP (tăng 0,2% so với năm
2012).
7
“Diễn biến bình đẳng giới trong giáo dục những năm vừa qua”, http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?
newid=21121, ngày truy cập 26/12/2018.
lOMoARcPSD|36443508
Mặc Luật bình đẳng giới năm 2005 đã những quy định về bình đẳng giới
trong gia đình đồng thời tại các luật chuyên ngành như Luật hôn nhân và gia đình cũng
quy định về quyền nghĩa vụ của các thành viên. Tuy nhiên, thực trạng bình đẳng giới
trong gia đình hiện nay, định kiến giới tưởng “trọng nam, khinh nữ” vẫn tồn tại
khá phổ biến trong gia đình và một bộ phận dân hội, trở thành rào cản trong quá
trình thực hiện BĐG. Vấn đề bất bình đẳng giới trong hội nói chung trong gia
đình nói riêng vẫn tồn tại dẫn đến tình trạng BLGĐ tuy có giảm nhưng vẫn còn xảy ra.
Biểu hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, thách thức vvấn đề duy trì nòi giống. Áp lực sinh con trai nối dõi
tronggia đình một vấn đề không mới, tồn tại trong hội Việt Nam từ rất lâu.
Ngày nay, mặc đã được tiếp cận với những ởng hiện đại về bình đẳng giới
nhưng bên trong mỗi mãi ấm vẫn luôn tồn tại một đợt sóng ngầm đến từ bố mẹ chồng,
từ người chồng của mình. Áp lực ấy tác động đến cuộc sống của người phụ nữ.
- Thứ hai, về sự phân công lao động trong gia đình giữa người vợ người
chồng.Hiện nay trong gia đình, đa số người phụ nữ phải làm việc nhiều hơn nam giới.
- Thứ ba, về vấn đề đóng góp kinh tế trong gia đình. Trong gia đình vẫn có quan niệm
người đàn ông trụ cột kinh tế. vậy, nhiều trường hợp, người vnhà nội trợ bị
coi ăn bám, không tiếng nói trong gia đình. Nhưng ngược lại, cũng nhiều trường
hợp chính người phụ nữ phải tự bươn chải, lo toan cuộc sống gia đình. Vấn đề kinh tế
cũng là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong gia đình.
- Thứ tư, về vấn đề duy trì hạnh phúc, chống bạo hành trong gia đình. Bởi ngày
nay đasố các cặp vợ chồng trẻ sống riêng, tự lập. Chính môi trường tự lập, tạo cho sự
thoải mái nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho người phụ nữ: vấn đề làm thế nào để
duy trì hạnh phúc, vấn đề bạo lực gia đình. Bởi, thực tế cho thấy, hiện nay, gia đình trẻ
có chiều hướng ly hôn khá tăng.
Tóm lại, bình đẳng giới trong gia đình một môi trường lành mạnh để con
người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em được đối xử bình đẳng là tiền đề quan trọng cho sự
thành công trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em.
8
2.1.4. Bấất bình đng gii trong kinh tềấ, lao đng vic làm.
8
“Diễn biến bình đẳng giới trong giáo dục những năm vừa qua”, http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?
newid=21121, ngày truy cập 26/12/2018.
lOMoARcPSD|36443508
Bất đẳng định giới một vấn đề đáng quan tâm trong kinh tế lao động việc
làm. Nó thể hiện sự khác biệt về hội tiếp cận định hướng sự nghiệp giữa nam
nữ. Tuy nhiên, bất đẳng định giới không chỉ xuất hiện việc trả lương hay quyền lợi
của nam và nữ, mà còncả việc phân bổ vị trí công việc. Nhiều nghiên cứu đã chỉ
ra rằng, nữ thường bị đẩy vào các ngành nghề ít được đánh giá cao và thiếu hội thăng
tiến. Điều này có thể dẫn đến sự thiếu cân bằng về lực lượng lao động giữa nam và nữ,
ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế và xã hội. Do đó, cần có những nỗ lực để giảm
thiểu bất đẳng định giới trong kinh tế lao động việc làm, bao gồm việc tạo ra chính
sách hỗ trợ phụ nữ, đẩy mạnh giáo dục đào tạo đối tượng nữ để nâng cao năng lực
và kỹ năng cho họ, cũng như thay đổi nhận thức xã hội về vai trò và giá trị của nam và
nữ trong công việc.
2.2. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giới.
2.2.1. Quan nim xã h i l c hu.
Quan niệm hội lạc hậu những giá trị, quan điểm thái độ bị lạc hậu, không
phù hợp với thời đại hiện đại hội tiên tiến. Những quan niệm hội lạc hậu thường
gây ra sự bất ng, phân biệt đối xử giới hạn sự phát triển của xã hội. dụ, một
quan niệm hội lạc hậu việc coi trọng quyền lực vị trí của đàn ông hơn của
phụ nữ. Những quan điểm như vậy đã góp phần tạo ra sự bất bình đẳng giới, khiến phụ
nữ bị hạn chế quyền lực tiếp cận với các cơ hội tài nguyên quan trọng như giáo
dục và việc làm.
Các quan niệm hội lạc hậu cũng có thể phản ánh qua các định kiến về tôn
giáo, chủng tộc hoặc văn hóa. Những giá trị này thể gây ra sự phân biệt đối xử bất
công trong xã hội. Ví dụ, các quy tắc định nghĩa giới tính và hành vi tình dục của cộng
đồng LGBT+ vẫn chưa được nhiều người chấp nhận do quan niệm hội lạc hậu
định kiến về giới tính.
Tuy nhiên, để giải quyết các vấn đề này, chúng ta cần đưa ra các giải pháp mang
tính hiện đại và phù hợp với thời đại, như truyền thông thông minh, giáo dục bình đẳng
giới, và các chính sách xã hội công bằng để giảm bớt sự bất bình đẳng giới và phân biệt
đối xử trong xã hội.
2.2.3. Suy nghĩ, quan niệm chấp nhận của phụ nữ.
lOMoARcPSD|36443508
Phụ nữ luôn có những suy nghĩ và quan niệm riêng của mình, chính vì vậy họ
cũng cần được tôn trọng chấp nhận những suy nghĩ, quan điểm của mình.Phụ nữ
thường có tầm nhìn rộng và sâu sắc về cuộc sống, họ có khả năng suy nghĩ tư duy phân
tích và đưa ra những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên, trong một số xã hội vẫn còn tồn
tại định kiến giới hạn đối với phụ nữ, khiến cho suy nghĩ và quan điểm của họ không
được chấp nhận và tôn trọng.
dụ, trong một squốc gia, phụ nữ bị coi thường bị hạn chế quyền lực
tham gia vào các quyết định quan trọng trong gia đình, xã hội và chính trị. Điều này gây
ra sự bất bình đẳng giới và làm giảm giá trị của suy nghĩ và quan điểm của phụ nữ.
Tuy nhiên, với sự tiến bộ của thời đại và nỗ lực của các nhà hoạt động xã hội, tư
tưởng về sự bình đẳng giới đang dần được chấp nhận và lan rộng hơn. Phụ nữ đang
được nhiều hội để thể hiện và phát triển suy nghĩ quan điểm của mình trong nhiều
lĩnh vực, từ kinh doanh đến chính trị và nghệ thuật.
Những suy nghĩ và quan điểm của phụ nữ rất quan trọng và cần được lắng nghe
và tôn trọng. Việc chấp nhận những suy nghĩ và quan điểm của phụ nữ là một bước tiến
quan trọng trong việc đẩy mạnh sự bình đẳng giới và xây dựng một xã hội phát triển và
tiến bộ hơn.
2.3. Kết quả của bất bình đẳng giới.
2.3.1. Hu qu c a quan nim xã hi h c l c hu.
Quan niệm hội học lạc hậu những sai lầm của con người trong việc nhận
thức hội loài người. Trong lịch sử loài người, quan niệm hội học lạc hậu đã tồn
tại dai dẳng và xuất hiện nhiều quan niệm lệch lạc sai làm khác nhau, một số xuất phát
từ sự thiếu hiểu biết của con người, một số lại bị chi phối từ riêng lẻ những tầng lớp
trong xã hội gây ra sự bất bình đẳng xã hội.
Hậu quả của quan niệm xã hội học lạc hậu là rất lớn, chúng không chỉ làm giảm
đi chất lượng đời sống tinh thần của hội con người còn m hạn chế con người
trong công việc phát triển khoa học k thuật. Những quan niệm hội học lạc hậu tác
động tiêu cực đến một số bộ phận trong xã hội, làm gia tăng sự bất bình đẳng trong
hội, một số quan niệm còn làm cho nhận thức của con người trở nên suy đồi, sai so với
chuẩn mực của hiện tại, làm mất đi giá trị nội tại của bản than con người, không ít bộ
phận trong hội loài người đã nạn nhân của những quan niệm xã hội lạc lậu y,
lOMoARcPSD|36443508
những bộ phận này đã mất đi quyền tự chủ, quyền được tham gia vào các hoạt động xã
hội nói chung, gây ra sự mất cân bằng trong xã hội. Nhìn chung, những quan niệm lạc
hậu sẽ dẫn đến chất lượng đời sống hội của con người đi xuống, y ra sự bất bình
đẳng giới, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ xã hội.
Không chỉ riêng về tác hại đối với đời sống tinh thần của hội, những quan
niệm hội lệch lạc còn làm cho con người giảm đi khả năng nghiên cứu phát triển
khoa học kỹ thuật. Những quan niệm lệch lạc này gây ra những nhầm tưởng về thế giới
quan của con người, góp phần kiềm hãm đi sự phát triển của con người trong phát triển
khoa học kthuật. Không ít những nhà khoa học đã phải chịu khó khan, cản trtừ
những quan niệm hội học lạc hậu này, cũng đã nhiều nhân vật trong lịch sử
thậm chí phải mất cả nh mạng của mình khi phải đấu tranh cho cái bị chèn ép bởi
những quan niệm lệch lạc vô lý. Chừng ấy là mất mác lớn đối với công cuộc phát triển
của toàn thể nhân loại. Nói như vậy để cho chúng ta thấy, nhưng quan niệm xã hội học
lạc hậu cùng độc hại, chúng làm con người chậm chân một nhịp trên con đường
phát triển về xã hội và khoa học.
2.3.2. Kềất qu ca suy nghĩ, quan nim chấấp nhn ca ph n .
Suy nghĩ, quan niệm chấp nhận của phụ nữ được hình thành từ quan niệm trọng
nam khinh nữ trong hội lúc xưa, một hội mang nặng sự bất bình đẳng giới trong
xã hội lúc bấy giờ. Những chấp niệm y của phụ nữ sinh ra kết quả của sự độc hại
dăng dẳng của xã hội bất bình đẳng giới, làm cho những hy vọng hay ý chí của bộ phận
phụ nữ trong hội mai một đi, để cho những chấp niệm y thay thế. Những quan
niệm chấp nhận số phận trong bộ phận phnữ một công cụ tự vệ của phnữ giúp
phụ nữ có thể sống sót và sinh tồn dưới sự chèn ép của xã hội đầy sự bất bình đẳng này.
Song, khi hội đã trở nên văn minh, tiên tiến hơn, những chấp niệm này không
còn đúng nữa. Bởi lẽ trong hội hiện nay, con người đã ít nhiều không còn sự tồn
tại của bất bình đẳng giới nữa, con người nói chung, hay bộ phận phụ nữ nói riêng
đã them nhiều cho mình những công cụ giúp cho tiếng nói của mình được chất lượng
hơn lúc trước. Phụ nữ đã quyền được quyết định, kiểm soát đời sống hội của mình
cũng như quyền tham gia vào hoạt động xã hội của con người. Đây là lúc mà chúng ta
có thể thấy rằng quan niệm chấp nhận của phụ nữ cũng mang một tác hại tiêu cực đến
xã hội.
lOMoARcPSD|36443508
Những quan niệm chấp nhận của phụ nữ trong xã hội hiện nay không còn được
coi một công cụ hữu ích nữa được coi như một sự nhùn bước trước các quan
niệm xã hội lệch lạc xấu xa. Những chấp niệm chính là những mầm móng, nguy cơ gây
ra sự bất bình đẳng ở một số bộ phận, làm cản trở thúc tiến hoạt động xã hội, một nguy
cơ gây ra sự bất bình đẳng giới bphận nhỏ hơn toàn cầu. Đây cũng chính là những
bất cập trong hoạt động tuyền truyền công tác xã hội đến với toàn thể bộ phận trong xã
hội, những thiếu sót y sẽ vẫn khiến cho quan niệm chấp nhận của những người phụ
nữ còn tồn tại, và song hành với đó là sự bất bình đẳng giới.
2.3.3. Thành tu đt được ca Đng Cng sn Vit Nam đồấi vi vấấn đềề bấất
bình đng gii.
Trong thời đại hiện nay, bất bình đẳng giới vẫn là một trong những vấn đề nóng
hổi và cần được giải quyết một cách nghiêm túc. Tuy nhiên, chưa có nhiều quốc gia có
thể đạt được những thành tựu như Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc giảm bớt bất
bình đẳng giới.
Với những nỗ lực không ngừng trong suốt hơn 70 năm qua, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc giảm bớt bất bình đẳng
giới:
- Đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách và biện pháp để
nângcao vị trí và vai trò của phụ nữ trong xã hội. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký văn kiện đàn áp phong kiến, bóc lột nhân dân xóa bỏ bất bình đẳng giới. Từ đó,
nhiều chế đã được đưa ra như đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, cung cấp chương
trình đào tạo và hỗ trợ kinh tế cho phụ nữ. Điều này đã giúp cho phụ nữ có thể tham gia
vào các hoạt động kinh tế, chính trị hội, từ đó nâng cao đáng kể vị trí vai trò
của phụ nữ trong xã hội.
- Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra các chính sách để giảm bớt bất
bìnhđẳng giới trong lĩnh vực kinh tế chính trị. Điều y đã giúp cho phụ nữ thể
tiếp cận với các cơ hội kinh doanh đóng góp vào nền kinh tế. Đồng thời, phụ nữ cũng
đã thể tham gia vào các quan tổ chức chính trị, đảm bảo rằng giọng nói
quan điểm của phụ nữ được đưa vào quyết định quan trọng của xã hội.
- Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã đưa ra các chính sách biện pháp
để bảovệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình tình dục, đồng thời tăng ờng quản
lOMoARcPSD|36443508
trừng phạt các hành vi phân biệt chủng tộc giới tính. Điều y đã giúp cho phụ nữ
thể yên m hơn khi tham gia vào hội, không sợ bị bạo lực phân biệt chủng
tộc, giúp họ có thể đóng góp tối đa cho xã hội.
- Cuối cùng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã đưa ra các chính sách biện pháp
đểđảm bảo quyền và lợi ích của phụ nữ trong các lĩnh vực khác như giáo dục, y tế, văn
hoá thể thao. Điều này đã giúp cho phụ nữ có được điều kiện tốt hơn để học tập, phát
triển sự nghiệp và thể hiện bản thân, đồng thời đóng góp vào các lĩnh vực đóng vai trò
quan trọng trong xã hội.
Những thành tựu đáng kể y đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam giảm bớt bất
bình đẳng giới nâng cao vị trí của phụ nữ trong hội. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
thách thức vấn đề cần phải giải quyết để đạt được tình trạng bình đẳng giới hoàn
toàn. Để giải quyết vấn đề này, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ cần phải tiếp tục đưa ra các
chính sách biện pháp hiệu quả, cùng với sự tham gia tích cực của toàn hội, để xây
dựng một xã hội bình đẳng giới, phát triển và tiến bộ hơn nữa.
Thời gian qua, Việt Nam đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý để
giải quyết vấn đề bình đẳng giới, như: Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013, 7 bộ
luật, 161 luật; Thường vụ y ban của Quốc hội ban hành 15 pháp lệnh, trong đó
khoảng 45 luật bluật liên quan đến bình đẳng giới; Chính phủ đã ban hành 1413
nghị định để xem xét đưa bình đẳng giới vào Luật Bình đẳng và Luật Công bố văn bản
quy phạm pháp luật. Vào ngày 3 tháng 3 m 2021, Hội đồng Nhà nước đã phê duyệt
lần cuối Chiến lược bình đẳng giới quốc gia giai đoạn 2021-2030, được ban hành kèm
theo Nghị quyết số 28/NQ-CP. Thông qua việc thực hiện quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà ớc, công tác bình đẳng ớc ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, góp phần giảm khoảng cách giới, nâng cao vị thế của nam nữ
trong mọi lĩnh vực của hội. mạng sống Việt Nam đứng thứ 60 thế giới, thứ 4 châu
Á, thứ nhất trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á về
tỷ lệ nữ tham gia các cơ quan dân cử; đứng thứ ba trong khu vực
ASEAN và thứ 47/187 quốc gia trên thế giới về bình đẳng giới trong tham gia chính trị
lãnh đạo. Hiện nay, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt trong các quan đảng nhà
nước đã tăng lên về ợng đặc biệt về chất lượng. Trong Ban Chấp hành Trung
ương khóa XIII 19 nữ (9,5%). Quốc hội khóa XV đạt 30,26% đảng viên nữ, cao nhất
từ trước đến nay; Tỉnh ủy viên 16% nữ, đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh
lOMoARcPSD|36443508
29%... các bộ, quan ngang bộ, t lệ lãnh đạo cấp cao nữ chiếm n 50%. Việt
Nam có số lượng nữ đại biểu Quốc hội khóa III cao nhất. Tỷ lệ đại biểu Hội đồng nhân
dân là nữ ở cả ba cấp quận, huyện và thành phố trực thuộc Trung ương đều tăng so với
các kỳ bầu cử trước.
9
Đạt được bình đẳng giới còn thể hiện ở việc thu hẹp khoảng cách giới trong các
lĩnh vực kinh tế, lao động việc m. Trao quyền kinh tế cho phnữ, cải thiện khả
năng tiếp cận các nguồn lực kinh tế cải thiện khả năng tiếp cận thtrường lao động
cho phụ nữ nghèo ở nông thôn và dân tộc thiểu số. Chú trọng phát triển cán bộ quản
nữ chất lượng cao.
Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ 26,5%, đứng thứ 9/58 quốc gia vùng
lãnh thổ được khảo sát. Nhiều nữ doanh nhân uy tín, vị thế trong nước quốc tế.
Nhiều chem đạt giải khu vực quốc tế trên các lĩnh vực văn hóa, thể thao. Nguồn
nhân lực cho nghiên cứu về phụ nữ đã tăng lên đáng kể. Nhiều chị giáo sư, giảng
viên, tiến sĩ. Hàng ngàn nhà khoa học nữ đã đạt được nhiều thành tựu trong ngoài
nước, trong đó có nhiều người nhận giải thưởng nghiên cứu khoa học.
Hơn nữa, hợp tác song phương, thúc đẩy bình đẳng giới trao quyền cho phụ
nữ được lồng ghép vào các hoạt động đối ngoại ý nghĩa thiết thực. Tại Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc, Việt Nam đã chủ trì thông qua Nghị quyết 1889 về vai trò của phụ
nữ trong các xung đột tái thiết (2009), ưu tiên xuyên suốt bằng việc tổ chức hội nghị
quốc tế duy nhất tại Việt Nam, tích cực thúc đẩy “phụ nữ, a bình an ninh”. Để
đánh dấu kỷ niệm 25 năm ra đời chương trình nghị sự này, vào năm 2020, chúng tôi sẽ
thúc đẩy một phụ nữ toàn cầu, hòa bình an ninh Những thành tựu của Việt Nam về
bình đẳng giới là không thể phủ nhận. Trong hợp tác song phương, việc thúc đẩy bình
đẳng giới trao quyền cho phụ nữ được hỗ trợ bởi các hoạt động đối ngoại tất cả các
cấp, từ trao đổi, giao nhiệm vụ lãnh đạo, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, đến ký kết và
triển khai các thỏa thuận hợp tác cụ thể, thiết thực với các đối tác
Tuy nhiên, phụ nữ trẻ em gái vẫn những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương
và cần nhiều hội bình đẳng hơn. Hiện chỉ số bất bình đẳng giới của Việt Nam đứng
thứ 65/162 quốc gia và khu vực. Xếp hạng 87/156 về Chỉ số Thu hẹp Khoảng cách Giới
tính. Mặc dù Việt Nam đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh
9
Hà Lê, “Việt Nam giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”, https://vneconomy.vn/viet-namgiam-
dan-khoang-cach-gioi-trong-linh-vuc-chinh-tri.htm, ngày truy cập 19/10/2022.
lOMoARcPSD|36443508
giá cao về những nỗ lực thực hiện bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, nhưng vẫn
còn tồn tại những vấn đề về xâm hại phụ nữ, đặc biệt là những định kiến về phụ nữ còn
tồn tại không chỉ gây tổn hại. Đối với những người kém may mắn, nhưng đối với
toàn xã hội. Theo Khảo sát Quốc gia Việt Nam về Bạo lực đối với Phụ nữ, cứ 3 phụ nữ
thì có gần 2 người (gần 63%) cho biết chồng họ đã bị chồng mình hành vi thể chất, tình
dục, tình cảm, tài chính bạo lực vào năm 20191. Tôi đã trải qua nhiều hơn một lần.
Sinh kế Tỷ lệ lao động nữ phải làm những công việc bấp bênh cao 59,6%, cao hơn
nhiều so với t lệ của lao động nam 31,8%. Tuy nhiên, Đảng Nhà nước vẫn cam
kết mục tiêu tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới tạo điều kiện, hội để phụ nữ
nam giới tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và được thụ hưởng các lợi ích
bình đẳng. Việt Nam nói riêng đã đặt mục tiêu. Trong lĩnh vực chính trị, tỷ lệ này sẽ đạt
60% vào năm 2025 và đến năm 2030 tỷ lệ này sẽ đạt 75% ở tất cả các cấp chính quyền
bang địa phương. Trong đời sống kinh tế và nghề nghiệp, mục tiêu tăng ttrọng
của lực lượng lao động giảm tỷ trọng phụ nữ làm việc trong nông nghiệp xuống 50%
vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030, dưới 25%. Tỷ lệ nữ quản lý, doanh nhân,
hợp tác xã ít nhất là 27% vào m 2025 và 30% vào m 2030. Trong các lĩnh vực quản
phòng chống bạo lực gia đình và bạo lực tình dục, bên cạnh việc giảm số giờ trung
bình dành cho công việc chăm sóc giúp việc gia đình được trả ơng cho phụ nữ,
80% người bị bạo lực gia đình và tình dục cũng được yêu cầu thực hiện. Đến m 2025,
tiếp cận ít nhất các dịch vụ hỗ trợ cơ bản và 50% số người bạo hành gia đình.
10
3. GIẢI PHÁP.
3.1. Giải pháp của chính phủ.
Nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế; phá vỡ rào cản trong công tác bình
đẳng giới và “Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ trẻ em
gái" qua 08 mục tiêu cụ thể được ghi nhận tại Tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày
10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực
hiện Chương trình nghị sự 2030 sự phát triển bền vững như: Giảm thiểu, tiến tới
chấm dứt c hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ trẻ em gái trong mọi lĩnh vực
ở mọi nơi; Giảm đáng kể mọi hình thức bạo lực đối với phụ nữ trẻ em gái nơi công
10
Vũ Hồng, “Cần đẩy mạnh bình đẳng giới góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội”,
http://hoinongdan.org.vn/sitepages/news/1145/86890/can-day-manh-binh-dang-gioi-gop-phan-thuc-day-tien-
boxa-hoi, ngày truy cập 27/06/2019.
lOMoARcPSD|36443508
cộng hoặc nơi riêng tư, bao gồm cả hình thức bóc lột tình dục và các hình thức bóc lột
khác; Đảm bảo sự tham gia đầy đủ, hiệu quả và cơ hội bình đẳng tham gia lãnh đạo của
phụ nữ tất ccác cấp hoạch định chính sách trong đời sống chính trị, kinh tế
hội;… cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
- Phải nâng cao nhận thức về bình đẳng giới Hiện nay, tình trạng "trọng nam, khinhnữ"
vẫn đang là một hệ luỵ tư tưởng lớn, không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của nữ giới
còn hạn chế sự phát triển của xã hội. Chỉ khi thay đổi được nhận thức, xoá bỏ định
kiến về giới thì mới thay đổi được cách hành xử. Chính vậy, cả nam và nữ đều phải
thay đổi nhận thức, xoá bỏ định kiến phân biệt giới và để nâng cao nhận thức về bình
đẳng giới cần thực hiện các biện pháp cụ thể như: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về
bình đẳng giới; Tiến đến xoá bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời
mang định kiến về giới; Thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm, sinh hoạt, nói chuyện
về bình đẳng giới trong các cơ quan, đơn vị, trong các khu dân cư.
- Tiếp tục hoàn thiện đẩy nhanh việc thực hiện các quy định về quyền bình đẳnggiới.
Những quy định hiện hành còn nhiều bất cập, hạn chế bình đẳng giới cần phải thay
đổi. Đặc biệt, Điều 71 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định rõ “Cha, mnghĩa
vụ quyền ngang nhau trong việc cùng chăm c, giáo dục con chưa thành niên”.
Tuy nhiên, khoản 4 Điều 2 Nguyên tắc cơ bản trong thực hiện hôn nhân và kế hoạch
hóa gia đình vẫn tiếp tục duy trì định kiến giới quy định: giúp người mẹ làm tốt
bổn phận cao cả của mình; thực hiện kế hoạch hóa gia đình”. Sự sắp xếp y không
khác khẳng định trách nhiệm nuôi dạy con cái vẫn thuộc về người mẹ việc kế
hoạch hóa gia đình trước hết vẫn trách nhiệm của người phụ nữ. Tuy nhiên, cần
đưa ra những quy định không phù hợp loại bỏ định kiến giới trực tiếp từ các văn
bản quy phạm pháp luật. Lồng ghép công tác bình đẳng vào nhiệm vụ chính trị của
quan, đơn vị chương trình phát triển kinh tế - hội của địa phương. Xử
nghiêm các hành vi phân biệt đối xử xúc phạm giới tính để răn đe hội. Phải
tuyên truyền rộng rãi những vụ án này bằng một số hình thức như: tổ chức các phiên
tòa lưu động; tuyên truyền miệng khu dân cư, khu dân cư; lồng ghép với các chương
trình phát thanh, truyền hình của địa phương nhằm tạo hiệu ứng phản chiếu tốt nhất
có thể cảnh báo, răn đe để người dân biết, không vi phạm.
- Tích cực giảm thiểu khoảng cách giới tại nơi làm việc. Mặc pháp luật nhữngquy
định đặc biệt nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới nhưng trên thực tế cần đảm bảo cơ
lOMoARcPSD|36443508
chế để thực hiện những quy định này trên thực tế. Cần nâng cao nhận thức của người
lao động người sử dụng lao động về lợi ích kinh tế, hội của bình đẳng giới
hơn hết là thay đổi cách nghĩ của người sử dụng lao động để xóa bỏ định kiến, rào cản
nhằm đạt được bình đẳng giới cho cả nam và nữ. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phải chế kiểm soát bố trí công việc trong việc thực hiện chế độ
thai sản, cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em hội hóa để tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho cả lao động nam và nữ; bảo đảm cơ hội bình đẳng cho nam và nữ trong việc
nâng cao trình độ, k năng nghề nghiệp trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng;
trong lương hay thậm chí là trong thi đua, khen thưởng…
11
- Chú trọng noi gương người tốt thực hiện bình đẳng giới Các địa phương triển khaicác
hình tuyên truyền bình đẳng như “Câu lạc bộ bình đẳng giới”, tổ công tác vấn,
hỗ trợ bạo lực tình dục”, y dựng “Mái ấm” hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực. Thực hành
tình dục đã có hiệu quả trong thực tế. Tùy theo điều kiện từng địa phương mà duy trì
và phổ biến các mô hình này.
- Tăng cường trách nhiệm quản của chính quyền địa phương, vai trò tham gia,
phốihợp của các sở, ban, ngành, ban, ngành của Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể
chính trị - xã hội trong việc nâng cao nhận thức, thực hiện và hoàn thiện thể chế bình
đẳng giới. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của người quản lý trong việc thực hiện các
quy định về bình đẳng và thăng tiến phụ nữ.
- Thực hiện đúng cơ chế, chính sách bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng giớitrong
lĩnh vực mình phụ trách. Lồng ghép nội dung bình đẳng giới trong y dựng chính
sách, chương trình, kế hoạch, dự án, chiến ợc, kế hoạch phát triển kinh tế - hội
của tỉnh; tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản
lý các cấp.
- Chúng ta sẽ tiếp tục triển khai Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn
2021-2030, Chương trình Phòng ngừa Ứng phó với Bạo lực Tình dục giai đoạn 2021-
2025 Chương trình Truyền thông về Bình đẳng đến năm 2030, trong đó tập trung
vào các mục tiêu mục tiêu của Chiến lược Bình đẳng. chương trình công bằng các
hoạt động Vì sự tiến bộ của phụ nữ.
11
Trương Thị Điệp, “Bình đẳng giới ở Việt Nam, thành tựu và thách thức trong giai đoạn hiện nay”,
http://laodongxahoi.net/binh-dang-gioi-o-viet-nam-thanh-tuu-va-thach-thuc-trong-giai-doan-hien-
nay1310941.html#_ftn1, ngày truy cập 22/10/2018
lOMoARcPSD|36443508
- Tổ chức tổng kết 15 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới, đánh giá kết quả, lợi ích,khó
khăn, vướng mắc của quá trình thực hiện; gợi ý những nội dung cần chỉnh sửa, hoàn
thiện để quá trình áp dụng được hoàn thiện và đảm bảo tính khả thi.
- Nâng cao năng lực về bình đẳng giới, hiệu quả quản nhà nước công tác sựtiến
bộ của phụ nữ:
+ Tiếp tục giữ vững nhiệm vụ, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong
chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác bình đẳng và Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái,
trong đó chú trọng phối hợp liên ngành giữa các quan hành chính nhà nước
quan hành chính nnước, thực hiện kiểm soát, nghiên cứu các lĩnh vực chính trị -
xã hội. tổ chức giám sát việc thực hiện chính sách bình đẳng.
+ Tổ chức khảo sát, điều tra công tác cán bộ nữ trên địa bàn toàn tỉnh.
+ Tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo chuyên đề về knăng lồng ghép giới trong y
dựng văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chương trình, dự án... cho cán bộ phụ
trách ng tác pháp chế y dựng chính sách, pháp luật; k năng viết bài, thu thập
thông tin đảm bảo yếu tố bình đẳng giới cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên thuộc
các cơ quan thông tin báo chí trên địa bàn tỉnh; nâng cao kiến thức, kỹ năng về công tác
bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới; đào tạo
kỹ năng truyền thông, vấn tâm lý, trợ giúp pháp lý, kết nối dịch vkỹ năng làm
việc với người hành vi y bạo lực giới; nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ,
tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận
với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; y dựng người phụ nữ Nghệ An đáp
ứng yêu cầu thời đại mới.
+ Tăng ờng công tác kiểm tra, thanh tra, xử vi phạm về bình đẳng giới thuộc phạm
vi, lĩnh vực, địa bàn quản lý; kịp thời xác minh, báo cáo những vấn đề, vụ việc đột xuất
liên quan đến công tác bình đẳng giới sự tiến bộ của phụ nữ cho quan nhà nước
thẩm quyền, y ban nhân dân các cấp để phối hợp giải quyết. + Củng cố bộ máy,
kiện toàn, phát huy hthống tổ chức, mạng ới cán bộ, cộng tác viên bình đẳng giới
sự tiến bộ của phụ nữ. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức liên ngành
về bình đẳng giới, bảo vệ phụ nữ và nâng cao chất lượng hoạt động (phụ nữ và ban bảo
vệ phụ nữ các cấp). xây dựng chương trình, kế hoạch liên ngành để thực hiện nhiệm vụ
bình đẳng và bảo vệ phụ nữ.
lOMoARcPSD|36443508
+ Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực hợp pháp của các tổ chức, tổ chức, cá
nhân trong nước và quốc tế nhằm nâng cao tính bền vững, hiệu quả của bình đẳng giới
và hướng tới thúc đẩy bình đẳng giới.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật
về bình đẳng giới.
+ Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông về các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
Nhà nước về bình đẳng giới; sự tiến bộ của phụ nữ phòng ngừa, ng phó với
bạo lực trên cơ sở giới; các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2021-2030, Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên sở giới
giai đoạn 2021-2025 Chương trình truyền thông về nh đẳng giới đến năm 2030;
bám sát các nhiệm vụ, giải pháp; quan tâm, bố trí nguồn lực để triển khai nhằm đạt được
các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.
+ Đề cao vai trò của nam giới phụ nữ trong gia đình hội. Khuyên khích sự tham
gia của nam giới trong các hoạt động bình đẳng giới, phòng ngừa, ứng phó với bạo lực
trên cơ sở giới và hoạt động Vì sự tiến bộ của phụ nữ .
+ y dựng, phát hành các sản phẩm truyền thông, phổ biến chính sách, pháp luật về
bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, phòng ngừa và ứng phó với bạo
lực trên sở giới trên các phương tiện thông tin đại chúng địa phương hệ thống
thông tin cơ sở; tăng cường ứng dụng, khai thác lợi thế của công nghệ thông tin và các
loại hình truyền thông trên nền tảng số; khuyến khích phát triển, xuất bản các sản phẩm
truyền thông bằng tiếng dân tộc thiểu số, phù hợp với từng địa bàn, đối tượng cụ thể.
+ Tăng cường và đa dạng hóa các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức, chuyển
đổi hành vi về bình đẳng giới trong các tầng lớp nhân dân, quan tâm đến việc tiếp cận
của các nhóm người yếu thế, người khuyết tật; tăng cường tuyên truyền, giới thiệu về
các mô hình, dịch vụ hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới tại địa phương; nhân rộng những
điển hình tốt, người có uy tín, ảnh hưởng tích cực tại cộng đồng và thu hút sự tham gia
của nam giới, trẻ em trai trong thực hiện bình đẳng giới; tích cực đấu tranh, phản bác
những thông tin sai lệch về bình đẳng giới của Việt Nam.
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện Tháng hành động bình đẳng giới phòng ngừa, ứng
phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2022 hiệu quả, sáng tạo, thích ứng với điều kiện,
tình hình cụ thể.
lOMoARcPSD|36443508
+ Đẩy mạnh ng dụng công nghệ số, đa dạng hóa các loại hình, sản phẩm trong công
tác truyền thông về bình đẳng giới; phòng ngừa ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới và
hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
+ Tăng cường kiểm tra về công tác bình đẳng giới hoạt động sự tiến bộ của phụ
nữ.
+ Ban sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh y dựng kế hoạch tổ chức các đoàn kiểm tra
công tác bình đẳng giới hoạt động sự tiến bộ của phụ nữ tại địa phương, đơn vị.
Tập trung lựa chọn các đơn vị, địa phương có nhiều vấn đề nổi cộm đối với phụ nữ
trẻ em gái; nơi có tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy, lãnh đạo, quản lý thấp, có các mục tiêu, chỉ
tiêu về bình đẳng giới chưa đạt hoặc nguy cơ cao về bất bình đẳng giới.
+ Các sở, ban ngành cấp tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, thị trách
nhiệm tự kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện Kế hoạch trong phạm vi chức năng, nhiệm
vụ được giao.
12
Như vậy, thể thấy rằng bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng Nhà nước
dành sự ưu tiên đặc biệt. những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳng về giới đã
mang lại nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá rất cao. Tuy
nhiên, bên cạnh kết quả đạt được rõ ràng, không thể phủ nhận vẫn còn những tồn tại,
hạn chế. Nhưng cần khẳng định một lần nữa: Bình đẳng giới, bình đẳng các dân tộc trở
thành mục tiêu phát triển của Việt Nam nói riêng, của cộng đồng quốc tế nói chung; và
để đạt được mục tiêu này không phải một sớm một chiều mà là cả một quá trình lâu dài
và cần sự vào cuộc của chính quyền, sự tham gia của toàn dân.
3.2. Giải pháp cá nhân.
Trong xã hội hiện đại, vấn đề bình đẳng giới vẫn là một trong những vấn đề còn
dang dở và đòi hỏi sự chú ý và giải quyết từ cả cộng đồng. Tuy nhiên, các giải pháp về
bình đẳng giới không thể chỉ được thực hiện bởi chính phủ còn phụ thuộc vào sự
thay đổi tư duy, nhận thức của mỗi cá nhân trong xã hội. Dưới đây là một số giải pháp
của cá nhân để nâng cao sự bình đẳng giới trong xã hội:
12
Ban dân vận tỉnh ủy Nghệ An, “Nhiệm vụ giải pháp tiếp tục thực hiện công tác bình đẳng giới và hoạt động vì
sự tiến bộ phụ nữ”, https://nghean.dcs.vn/vi-vn/tin/nhiem-vu-giai-phap-tiep-tuc-thuc-hien-cong-tac-binh-d
%E1%BA%B3ng-gioi-va-hoat-dong-vi-su-tien-bo-phu-nu/783534-897415-148833, ngày truy cập 06/04/2022.
lOMoARcPSD|36443508
- Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới: Chúng ta cần sự hiểu biết ràng về
vấnđề bình đẳng giới, phải biết ràng về tầm quan trọng của đối với hội sự
phát triển của con người. Chúng ta cần nhận ra rằng bình đẳng giới là một giá trị cốt lõi
trong một xã hội dân chủ và công bằng.
- Phát triển kỹ năng giao tiếp tôn trọng giới tính: Mỗi nhân cần phải trang bị
chomình knăng giao tiếp và tôn trọng giới tính trong giao tiếp, từ đó tránh những hành
vi kỳ thị, phân biệt giới tính hoặc bạo lực với giới tính.
- Tránh lăng mạ chê bai với những người khác giới: Chúng ta cần tránh lăng
mạ vàchê bai những người khác giới, đó là một trong những hành vi có hại nhất đối với
tình hình bình đẳng giới. Bởi vì lăng mạ và chê bai không chỉ khiến người bị phân biệt
đối xử mà còn gây ra sự đau khổ tinh thần và cảm giác thiếu tự tin.
- Không giới hạn bản thân về các lựa chọn: Chúng ta cần phải giải phóng bản
thânkhỏi các giới hạn hội, bao gồm cả giới hạn về giới tính. Chúng ta cần phải tin
tưởng vào bản thân, đặt mục tiêu và khám phá những thứ mà chúng ta yêu thích, không
để giới tính làm trở ngại.
- Chia sẻ thông tin tuyên truyền về bình đẳng giới: nhân thể sử dụng
cácphương tiện truyền thông hội hoặc đóng góp cho các tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực giới để chia sẻ thông tin tuyên truyền về bình đẳng giới. Các thông tin y có
thể liên quan đến các chính sách pháp luật mới nhất, những vụ việc liên quan đến giới
hay các bài viết nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề này. Bên cạnh đó,
chia sẻ kinh nghiệm những phương pháp hiệu quả để thúc đẩy bình đẳng giới cũng
một cách để tạo động lực cho những người khác tham gia vào các hoạt động y. -
Đòi hỏi các đại sứ, chính trị gia hành động bình đẳng giới: Các đại sứ, chính trị gia
đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chính sách tạo ra môi trường thân thiện
cho việc phát triển bình đẳng giới. Do đó, nhân thể tham gia các chiến dịch,
tên các đơn thư hoặc gửi thư đến các đại sứ, chính trị gia để yêu cầu họ hành động
đóng góp cho một xã hội bình đẳng giới hơn.
- Tự hoàn thiện bản thân học hỏi thêm về bình đẳng giới: Mỗi nhân cần
thườngxuyên tự đánh giá và hoàn thiện bản thân về ý thức về bình đẳng giới. Việc tìm
hiểu về các chính sách pháp luật, các cuộc đấu tranh của phụ nữ và cộng đồng LGBT+
cũng như tham gia vào các cuộc thảo luận, hội thảo, khóa đào tạo về bình đẳng giới sẽ
lOMoARcPSD|36443508
giúp nhân nắm bắt thêm kiến thức và cải thiện kỹ năng để đóng góp cho sự phát triển
bình đẳng giới trong xã hội.
Tóm lại, sự bình đẳng giới một trong những mục tiêu quan trọng của mỗi
hội. Để đạt được mục tiêu y, không chỉ riêng các chính trị gia, nhà lãnh đạo hội
mỗi nhân đều cần phải đóng góp thực hiện các giải pháp để nâng cao bình
đẳng giới. Chỉ khi tất cả mọi người trong hội nhận thức được tầm quan trọng của
bình đẳng giới hành động tương ứng, chúng ta mới thể đạt được sự thay đổi
tiến bộ.
KẾT LUẬN
Tổng kết lại, vấn đề bình đẳng giới một vấn đề quan trọng trong hội hiện
nay. Chúng ta cần nhìn nhận thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo bình đẳng giới
trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần chấp nhận sự
khác biệt về giới tính và đối xử với nhau trên cơ sở tôn trọng và công bằng.
Với những giải pháp cụ thể đã đề ra, mỗi nhân cần nhận thức thực hiện
chúng trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta cần phải tự học hỏi, trau dồi kiến thức
nhận thức về bình đẳng giới để thể thực hiện truyền đến người khác. Đồng
thời, cần y dựng thái độ tôn trọng, không phân biệt đối xử trên sở giới tính, thể
hiện sự bình đẳng giới trong mọi hoạt động, từ trong gia đình, cơ quan, trường học cho
đến cộng đồng xung quanh.
Tuy nhiên, việc thực hiện bình đẳng giới không phải một qtrình đơn giản
và nhanh chóng. Đây là một quá trình kéo dài, đòi hỏi sự nhạy cảm, ý thức cao về bình
đẳng giới sự cam kết bền vững. Chúng ta cần thay đổi thái độ, suy nghĩ, hành động
để từ đó góp phần xây dựng một xã hội công bằng và bình đẳng giới.
Với mong muốn đó, mỗi nhân cần nhận thức được tầm quan trọng của việc
thực hiện bình đẳng giới, đồng thời đóng góp tích cực vào công cuộc này thông qua c
hành động, chương trình học tập, tuyên truyền. Bằng cách đó, chúng ta có thể đạt được
một hội bình đẳng giới, nơi phụ nữ nam giới được coi trọng, đánh giá dựa trên
năng lực, đóng góp và thành tựu của mỗi cá nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁCH:
lOMoARcPSD|36443508
1. Kenneth Cauthen (1987), The Passion for Equality, NXB Rowman & Littlefield,tr.8.
2. Steven Goldberg (1973), The Inevitability of Patriarchy, NXB William Morrow
andCompany, tr.133.
3. Jean-Jacques Rousseau (1753), Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng.
TÀI NGUYÊN TRỰC TUYẾN:
1. HaNoi1000, “Bất bình đẳng hội gì? Nguyên nhân, Các quan
điểm”,https://hanoi1000.vn/bat-binh-dang-xa-hoi-la-gi-nguyen-nhan-cac-quan-diem,
ngày truy cập 11/03/2022.
2. Tạp chí tổ chức Nhà ớc, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới sự
vậndụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_s
u_van_dung_cua_Dang_Cong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016.
3. Nguyễn Văn Phái, “Tsố giới tính khi sinh bất bình thường của Việt Nam
nhữnghậu quả thể xảy ra”, https://kinhtedothi.vn/ty-so-gioi-tinh-khi-sinh-bat-
binhthuong-cua-viet-nam-va-nhung-hau-qua-co-the-xay-ra.html, ngày truy cập
09/09/2021.
4. “Diễn biến bình đẳng giới trong giáo dục những m vừa
qua”,http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?newid=21121, ngày truy cập
26/12/2018.
5. Lê, “Việt Nam giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính
trị”,https://vneconomy.vn/viet-nam-giam-dan-khoang-cach-gioi-trong-linh-vuc-
chinhtri.htm, ngày truy cập 19/10/2022.
6. Hồng, ”Cần đẩy mạnh bình đẳng giới góp phần thúc đẩy tiến bộ
hội”,http://hoinongdan.org.vn/sitepages/news/1145/86890/can-day-manh-binh-dang-
gioigop-phan-thuc-day-tien-bo-xa-hoi, ngày truy cập 27/06/2019.
7. Trương Thị Điệp, “Bình đẳng giới Việt Nam, thành tựu thách thức trong
giaiđoạn hiện nay”, http://laodongxahoi.net/binh-dang-gioi-o-viet-nam-thanh-tuu-
vathach-thuc-trong-giai-doan-hien-nay-1310941.html#_ftn1, ngày truy cập
22/10/2018.
8. Ban dân vận tỉnh y Nghệ An, “Nhiệm vụ giải pháp tiếp tục thực hiện công tác
bìnhđẳng giới hoạt động sự tiến bộ phụ nữ”, https://nghean.dcs.vn/vi-
lOMoARcPSD|36443508
vn/tin/nhiemvu-giai-phap-tiep-tuc-thuc-hien-cong-tac-binh-d%E1%BA%B3ng-gioi-
va-hoat-dongvi-su-tien-bo-phu-nu/783534-897415-148833, ngày truy cập 06/04/2022.
| 1/37

Preview text:

lOMoARcPSD| 36443508
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN Học kỳ 2/2021-2022
NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC
VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU:..........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................5
1. KHÁI NIỆM CHUNG...............................................................................................5 1.1. Bất bình đẳng xã
hội...............................................................................................5
1.1.1. Định nghĩa bất bình đẳng..............................................
1.1.2. Phân loại bất bình đẳng............................................................ lOMoARcPSD| 36443508
1.1.3. Các quan điểm về bất bình đẳng xã hội....................................6
1.1.4. Cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng............................................8
1.2. Bất bình đẳng giới.....................................................................10
2. Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay................................................................15
2.1. Các thực trạng liên quan đến bất bình đẳng giới trong xã
hội...............................16
2.2. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giới...................................22
2.2.1. Quan niệm xã hội lạc hậu.........................................22
2.2.3. Suy nghĩ, quan niệm chấp nhận của phụ nữ......................................................22
2.3. Kết quả của bất bình đẳng giới.....................................23
3. GIẢI PHÁP...........................................................................28
3.1. Giải pháp của chính phủ.....................................................29
3.2. Giải pháp cá nhân......................................................34
KẾT LUẬN.................................................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................37 lOMoARcPSD| 36443508 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong xã hội ngày nay, bất bình đẳng giới là một vấn đề nóng hổi, đáng quan
ngại và cần được tìm hiểu sâu hơn. Hằng ngày, chúng ta chứng kiến những tác động
tiêu cực của bất bình đẳng giới trong cuộc sống của chúng ta. Từ sự chênh lệch thu
nhập, sự kỳ thị và bạo lực, đến sự thiếu công bằng trong cơ hội và quyền lợi, bất bình
đẳng giới đã lan rộng và gây ảnh hưởng đến mọi người trên khắp thế giới.
Đó là lý do tại sao chúng tôi quyết định chọn đề tài "Bất bình đẳng giới trong xã hội
ngày nay" cho tiểu luận của mình. Chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu về vấn đề này sẽ
mang lại những nhận thức mới và đưa ra giải pháp hiệu quả để giảm bớt bất bình đẳng giới trong xã hội.
Đầu tiên, bất bình đẳng giới không chỉ là một vấn đề cục bộ mà còn là một vấn
đề toàn cầu. Bất bình đẳng giới tồn tại ở mọi quốc gia, trong mọi tầng lớp xã hội và ảnh
hưởng đến cả nam giới và nữ giới. Việc tìm hiểu về bất bình đẳng giới trong xã hội ngày
nay sẽ giúp chúng tôi nhận ra những mô hình và xu hướng chung của vấn đề này, từ đó
đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm giải quyết vấn đề này trên phạm vi rộng hơn.
Thứ hai, bất bình đẳng giới không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn gây tổn
thương cho xã hội và kinh tế. Sự chênh lệch giữa nam giới và nữ giới trong việc truy
cập vào giáo dục và cơ hội việc làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của một quốc
gia. Đồng thời, sự kỳ thị và bạo lực đối với những nhóm giới tính khác cũng góp phần
làm suy yếu mạng lưới xã hội. Bằng cách nghiên cứu về bất bình đẳng giới, chúng tôi
hy vọng có thể đưa ra những giải pháp và chính sách thích hợp để xóa bỏ sự bất bình
đẳng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.
Thứ ba, việc nghiên cứu về bất bình đẳng giới cũng mang lại cơ hội để chúng tôi
nâng cao nhận thức và hiểu biết về vấn đề này. Điều này giúp chúng tôi nhìn nhận rõ
hơn về các thách thức mà phụ nữ và những nhóm giới tính khác đang phải đối mặt hàng
ngày, từ việc xâm phạm đến quyền tự quyết và tự do cá nhân cho đến sự thiếu đại diện
trong các lĩnh vực quyền lực. Chúng tôi hy vọng tiểu luận này cũng sẽ góp phần nâng
cao nhận thức của mọi người về vai trò của họ trong việc thay đổi và xây dựng một xã
hội công bằng và đồng tâm. lOMoARcPSD| 36443508
Trên cơ sở những lý do trên, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài "Bất bình đẳng
giới trong xã hội ngày nay" cho tiểu luận của mình. Chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu
sâu hơn về vấn đề này sẽ mang lại những góc nhìn mới, đóng góp vào việc giải quyết
và xóa bỏ bất bình đẳng giới trong xã hội, góp phần xây dựng một tương lai tươi sáng
và công bằng hơn cho mọi người.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của tiểu luận "Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay" là tìm hiểu,
phân tích và đánh giá tình hình bất bình đẳng giới hiện tại trong xã hội. Đây là một vấn
đề quan trọng đòi hỏi sự quan tâm và thảo luận sâu hơn để xác định những nguyên nhân
và hậu quả của bất bình đẳng giới, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giảm bớt và loại bỏ hiện tượng này.
Mục đích đầu tiên của tiểu luận là nghiên cứu để hiểu rõ hơn về các yếu tố góp
phần vào sự xuất hiện và duy trì của bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay. Qua việc
phân tích các vấn đề như sự chênh lệch trong việc tiếp cận giáo dục và cơ hội việc làm,
định kiến xã hội, vai trò truyền thống và sự kỳ thị giới tính, chúng ta có thể xác định
được các nguyên nhân cụ thể gây ra sự bất bình đẳng giới.
Mục đích thứ hai là đánh giá tác động của bất bình đẳng giới lên cá nhân, gia
đình, xã hội và kinh tế. Tìm hiểu về những hệ quả của bất bình đẳng giới giúp chúng ta
nhìn thấy mức độ tổn thương và hạn chế mà nó gây ra, từ việc ảnh hưởng đến sự phát
triển cá nhân, thăng tiến nghề nghiệp, cho đến sự suy yếu của mạng lưới xã hội và tăng
cường bất bình đẳng thu nhập. Đánh giá này cung cấp cơ sở để thể hiện tầm quan trọng
của việc giải quyết bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay.
Mục đích cuối cùng là đề xuất các giải pháp và chính sách nhằm giảm bớt và loại
bỏ bất bình đẳng giới. Dựa trên những nghiên cứu và phân tích đã được thực hiện, tiểu
luận sẽ đưa ra những khuyến nghị và giải pháp cụ thể, từ các biện pháp giáo dục và xây
dựng nhận thức cho đến việc thay đổi quy định pháp luật và chính sách cung cấp cơ hội
công bằng cho cả nam và nữ. Mục tiêu là tạo ra một xã hội công bằng và bền vững, nơi
mà mọi cá nhân, bất kể giới tính, có thể phát triển và tham gia vào sự phát triển toàn diện của xã hội. lOMoARcPSD| 36443508
Tổng kết lại, mục đích của tiểu luận "Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay"
là tìm hiểu, đánh giá và đề xuất các giải pháp nhằm giảm bớt và loại bỏ bất bình đẳng
giới. Qua đó, tiểu luận hướng đến mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng và đồng
tâm, nơi mà mọi cá nhân có cơ hội phát triển và đóng góp vào sự phát triển toàn diện của xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành đề tài tiểu luận "Vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay"
một cách tốt nhất, chúng tôi sử dụng một sự kết hợp linh hoạt của nhiều phương pháp
và công cụ nghiên cứu khác nhau: -
Phương pháp phân tích tư liệu: Xem xét các tài liệu có sẵn trong kho thông tin
lưu trữ và các nguồn khác để nghiên cứu vấn đề một cách chi tiết. Điều này giúp thu
thập số liệu, tư liệu thứ cấp và thậm chí những phân tích, kết luận có sẵn để hỗ trợ cho
quá trình nghiên cứu và xây dựng luận cứ rõ ràng. -
Phương pháp tổng hợp và logic: Chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp kết
hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ các kết quả thu được thông qua phân tích,
chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp để kết hợp chúng lại với nhau, nhằm tạo ra
một sự nhận thức rõ ràng và hợp lý về vấn đề nghiên cứu. -
Phương pháp chuyên gia: Chúng tôi áp dụng phương pháp này để thu thập ý kiến
của các chuyên gia về vấn đề xã hội liên quan. Ý kiến của các chuyên gia thường mang
tính chất thực tiễn và giàu kiến thức chuyên môn. Điều này đảm bảo tính thực tiễn và
sự đa chiều trong quá trình nghiên cứu.
Bằng việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng quan
điểm toàn diện và hệ thống, từ khái quát và mô tả cho đến phân tích và tổng hợp. Chúng
tôi cũng sử dụng các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn để hoàn thiện bài tiểu
luận một cách khách quan nhất có thể. Nhờ vào sự kết hợp này, chúng tôi hy vọng đạt
được một cái nhìn toàn diện về vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay. PHẦN NỘI DUNG 1. KHÁI NIỆM CHUNG.
1.1. Bất bình đẳng xã hội.
1.1.1. Đ nh nghĩa bấất bình đị ẳng. lOMoARcPSD| 36443508
Tất cả các xã hội đều được đặc trưng bởi sự khác biệt xã hội. Đó là quá trình mà
con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử khác nhau bởi vị thế, vai trò cùng những
đặc điểm khác. Quá trình đó chuẩn bị cho bất bình đẳng xã hội, là điều kiện mà con
người có cơ hội không ngang bằng nhau về sử dụng của cải, quyền lực và uy tín. Bất
bình đẳng là một hiện tượng mang tính kế thừa ở mọi thời đại vì nó tồn tại trong mọi xã
hội do cơ cấu xã hội mang lại. Bất bình đẳng không phải là một hiện tượng tự nhiên,
tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các mối quan hệ trong xã hội, nó tồn tại “khi có một
nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác.” Trong sự vận động và phát
triển của xã hội thì bất bình đẳng xã hội luôn là một vấn đề trung tâm. Bất bình đẳng xã
hội hình thành nên một hệ thống tồn tại song song với sự phát triển qua những xã hội
khác nhau. Điều đó cũng cho ta nhận biết được rằng hệ thống bất bình đẳng sẽ khác
nhau trong những xã hội khác nhau và nguyên nhân chính là do thể chế chính trị và
hoàn cảnh, điều kiện sinh sống của từng nơi quyết định.
Từ khái niệm bất bình đẳng đã nêu ở phần trên, ta có thể suy ra bất bình đẳng xã
hội là sự không bằng nhau về mặt xã hội, tức là sự khác nhau về những lợi ích, cơ hội
về mặt vật chất lẫn tinh thần cũng như là thỏa mãn các lợi ích đó của cá nhân trong một
nhóm xã hội hay nhiều nhóm xã hội khác nhau.
1.1.2. Phấn loại bấất bình đẳng.
Bất bình đẳng có thể được phân thành 2 loại: bất bình đẳng mang tính tự nhiên
và bất bình đẳng mang tính xã hội. -
Bất bình đẳng mang tính tự nhiên: là sự khác biệt của cá nhân về một hoặc một
sốđặc điểm sẵn có như giới, tuổi, chủng tộc, trí lực,… -
Bất bình đẳng mang tính xã hội: là sự phân công lao động dẫn đến phân tầng, tạo
ralợi ích khác nhau giữa các cá nhân.1
Theo quan điểm của các nhà xã hội học nghiên cứu về cơ cấu xã hội thì bất bình
đẳng xã hội có vai trò hết sức quan trọng:
i. Bất bình đẳng được xem như là điều kiện để tổ chức xã hội. ii.
Bất bình đẳng là cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
iii. Bất bình đẳng đảm bảo cho đời sống và phát triển xã hội.
1 HaNoi1000, “Bất bình đẳng xã hội là gì? Nguyên nhân, Các quan điểm”, https://hanoi1000.vn/bat-binh-dangxa-
hoi-la-gi-nguyen-nhan-cac-quan-diem, ngày truy cập 11/03/2022. lOMoARcPSD| 36443508
Bất bình đẳng xã hội là một khái niệm rất rộng, nó bao hàm cả công bằng xã hội
và bất công bằng xã hội. Công bằng xã hội là sự bất bình đẳng hợp lý, hợp pháp, chủ
yếu dựa vào sự khác biệt khách quan, tự nhiên giữa các thành viên trong xã hội về mặt
năng lực (thể chất, trí tuệ), sự khác biệt về cái tài, cái đức và sự cống hiến, đóng góp
thực tế của mỗi cá nhân cho xã hội.
Bất công bằng xã hội là sự bất bình đẳng bất hợp lý, bất hợp pháp, không dựa
trên sự khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân, cũng không chủ yếu được tạo ra do sự khác
nhau về tài đức và sự đóng góp cống hiến một cách thực tế của mỗi người cho xã hội
mà dựa vào những hành vi trái pháp luật, tham nhũng, lừa gạt, trộm cắp, buôn bán phi
pháp để trở nên giàu có, luồn lọt, xu nịnh, để có vị trí cao trong xã hội hoặc lười biếng,
ỷ lại để rơi vào sự nghèo khổ, hèn kém.
Tóm lại, có thể kết luận rằng, bất bình đẳng xã hội mang theo cả mặt tích cực và
tiêu cực. Một mặt, đó là động lực thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, góp phần ổn định và
tạo ra bộ mặt xã hội, mặt khác đây cũng là nguyên nhân gây tích tụ bất bình xã hội, cản
trở sự phát triển chung của cộng đồng. Do đó, nghiên cứu về bất bình đẳng xã hội là
việc làm cần thiết nhằm củng cố, tổ chức xã hội ngày một công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bộ hơn.
1.1.3. Các quan điểm vềề bấất bình đẳng xã hội.
Bất bình đẳng có phải là một hiện tượng xã hội không thể nào tránh khỏi? Xung
quanh vấn đề này, có nhiều quan điểm khác nhau. Dưới đây là một số quan điểm:
+ Quan điểm dựa vào yếu tố sinh học của cá nhân:
Bất bình đẳng xã hội là hiện tượng xã hội không thể nào tránh khỏi - đây là vấn đề có
nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, bất bình đẳng luôn hiện diện bởi
sự khác biệt nhân cách giữa những cá nhân. Nếu có một xã hội mở và nếu con người
khác nhau về tài năng và nhu cầu thì điều đó sẽ hàm ý rằng bất bình đẳng là không thể
tránh được. Đó là một thực tế của xã hội. Một số bất bình đẳng đến như là kết quả không
thể né tránh về bất bình đẳng sinh học của kỹ năng, thể chất, khả năng tinh thần và
những khía cạnh của nhân cách.2 Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aritstốt (384– 322 TCN)
cho rằng có những khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân; thực tế, vẫn còn tồn tại những
2 Kenneth Cauthen (1987), The Passion for Equality, NXB Rowman & Littlefield, tr.8. lOMoARcPSD| 36443508
khác biệt trong kiểu phân chia giới như là kết quả không thể tránh được của bất bình
đẳng: “Đàn ông bản chất là thống trị, đàn bà là bị trị, và đó là một luật lệ”. Sự thống trị
và sự thành đạt cao của nam giới là khả năng không thể đảo ngược, bởi có những khác
biệt về sinh học giữa nam và nữ.3
+ Quan điểm dựa vào yếu tố kinh tế:
Một số nhà xã hội học khác đã cho rằng bất bình đẳng là không thể tránh khỏi;
nhưng họ lý luận nguyên nhân của nó là do xã hội có những nhiệm vụ này cần thiết hơn
những nhiệm vụ khác. Khả năng thực hiện những nhiệm vụ này khác nhau. Họ lập luận
rằng bất bình đẳng xã hội về lợi ích giữa các cá nhân là cần thiết để thúc đẩy người tài
nhất thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất. Do vậy trong những điều kiện đó, không
thể thủ tiêu bất bình đẳng, vì bình đẳng có nguy hiểm cho xã hội.
Có quan điểm cho rằng bất bình đẳng chủ yếu là do cấu trúc của hệ thống xã hội
gây ra chứ không phải do sự khác biệt về tài năng, đặc điểm và nhu cầu cá nhân.
Nguồn gốc của bất bình đẳng liên quan tới sở hữu tư nhân về của cải. Những đặc
điểm về kinh tế, chính trị và thị trường lao động tạo ra những khác biệt trong thu nhập
và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các cá nhân trong cơ cấu xã hội gây ra
bất bình đẳng kinh tế.4
+ Quan điểm của Karl Marx:
Học thuyết của Karl Marx dựa trên nghiên cứu các học thuyết kinh tế, được coi là nền
tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp đóng vai trò quan trọng trong mọi khía
cạnh của xã hội. Marx khẳng định rằng "Những tư tưởng thống trị của một thời đại luôn
là tư tưởng của giai cấp thống trị," phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Lý luận
của Marx xoay quanh hoạt động tổ chức sản xuất và phân công lao động trong xã hội,
cùng với việc phân tích cấu trúc xã hội, nhằm làm sáng tỏ tính chất giai cấp và bất bình
đẳng trong quan hệ xã hội. Từ việc phân tích cấu trúc xã hội này, ta có thể rút ra hai kết
luận quan trọng. Đầu tiên, cần loại bỏ và thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ sở
hữu xã hội để xây dựng một xã hội phát triển. Thứ hai, xã hội học cần tập trung vào
phân tích cấu trúc xã hội để xác định ai là những người hưởng lợi và ai là những người
3 Steven Goldberg (1973), The Inevitability of Patriarchy, NXB William Morrow and Company, tr.133.
4 Jean-Jacques Rousseau (1753), Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng. lOMoARcPSD| 36443508
chịu thiệt từ cách tổ chức và cơ cấu xã hội hiện tại. Tóm lại, cấu trúc xã hội, phân tầng
xã hội và bất bình đẳng xã hội là những đề tài cơ bản của xã hội học hiện đại.
+ Quan điểm của Max Weber :
Max Weber, một nhà xã hội học khác với Marx, không xem mọi cấu trúc xã hội
như một hệ thống bất bình đẳng dựa trên giai cấp. Theo Weber, sự phân hạng trong xã
hội phụ thuộc vào các yếu tố đặc biệt về địa vị xã hội dựa trên nền tảng tôn giáo. Ông
nhấn mạnh rằng quyền lực kinh tế có thể phát sinh từ quyền lực được xây dựng trên các
nền tảng khác. Địa vị xã hội và uy tín xã hội có thể bắt nguồn từ quyền lực kinh tế,
nhưng không nhất thiết là duy nhất. Ví dụ, một người giàu có nhưng không có kiến thức
hay giáo dục có thể không đạt được vị trí cao trong xã hội, trong khi ngược lại, địa vị
có thể là cơ sở cho quyền lực chính trị. Weber cho rằng đây là một vấn đề lịch sử và xã
hội cần được phân tích để tìm ra nguyên nhân thực sự của bất bình đẳng xã hội.
Quan điểm của Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường thay vì tái sản
xuất là nền tảng kinh tế của giai cấp. Theo Weber, nguyên nhân chính gây ra bất bình
đẳng trong xã hội tư bản là sự khác biệt về khả năng thị trường. Điều này có nghĩa là
khả năng chiếm lĩnh thị trường của mỗi cá nhân phụ thuộc vào tri thức, tài năng và kỹ
năng nghề nghiệp của họ.
1.1.4. Cơ ở ạ s t
o nền sự bấất bình đẳng.
Giới tính là một khái niệm xã hội được xác định bởi các quy tắc, giá trị và vai
trò mà xã hội gán cho các cá nhân dựa trên đặc điểm sinh lý của họ. Tuy nhiên, bất bình
đẳng giới tính vẫn là một vấn đề lớn trong xã hội hiện đại của chúng ta.
Cơ sở tạo nên bất bình đẳng giới tính trong xã hội bao gồm những giá trị, quan
niệm, vai trò xã hội và các quy tắc được đặt ra cho mỗi giới tính. Trong xã hội, nam giới
thường được xem là mạnh mẽ, năng động và quyền lực, trong khi nữ giới thường bị
xem là yếu đuối, nhạy cảm và nên có vai trò chăm sóc gia đình. Điều này đã tạo ra sự
bất bình đẳng giới tính trong xã hội và ảnh hưởng đến cuộc sống của các cá nhân, đặc
biệt là những người không tuân thủ quy tắc xã hội đối với giới tính.
Các ảnh hưởng của bất bình đẳng giới tính trên xã hội rất lớn và đa dạng, bao
gồm cả ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, hạnh phúc và sự phát triển cá nhân. Các nghiên
cứu đã chỉ ra rằng, phụ nữ thường bị thiệt hại hơn so với nam giới về mặt kinh tế, đặc lOMoARcPSD| 36443508
biệt là trong những nền kinh tế phát triển ít. Họ cũng có nguy cơ cao hơn bị bạo lực và
xâm hại tình dục, và thường không được đối xử công bằng trong việc tuyển dụng và
thăng tiến trong công việc. Ngoài ra, những người thuộc cộng đồng LGBT (Lesbian,
Gay, Bisexual, Transgender) cũng thường phải đối mặt với sự kì thị và phân biệt đối xử
từ xã hội, gây ra áp lực tâm lý và ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
Để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính trong xã hội, trước hết chúng ta cần
hiểu rõ cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng này. Một trong những cơ sở quan trọng nhất là
tư tưởng xã hội hóa giới tính, tức là quan niệm xã hội về vai trò và đặc tính của từng
giới tính. Tư tưởng này đã được tạo dựng và truyền tai từ thế kỷ trước đến nay, khi mà
xã hội đặt giá trị và yêu cầu khác nhau cho nam và nữ.
Ví dụ, đối với phụ nữ, xã hội thường kỳ vọng họ phải có ngoại hình đẹp, biết nấu
ăn, làm việc nhà, chăm sóc gia đình, trong khi đối với nam giới thì yêu cầu thường là
phải mạnh mẽ, can đảm, làm chủ được tình hình, kiếm tiền để nuôi gia đình. Các quan
niệm này đã được xây dựng theo thời gian và trở thành một phần không thể thiếu của xã hội.
Tuy nhiên, những quan niệm này đã tạo ra sự bất bình đẳng giới tính, khiến cho
phụ nữ và những người khác không phù hợp với quy chuẩn giới tính của xã hội bị kì thị
và phân biệt đối xử. Chính vì thế, để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính, chúng ta
cần xây dựng một xã hội đa dạng và tôn trọng sự khác biệt giới tính. Để đạt được điều
này, chúng ta cần tạo ra một môi trường giáo dục và văn hóa, nơi mà những quan niệm
truyền thống về giới tính không còn được coi là chính thống. Chúng ta cần truyền tải
thông điệp rằng mỗi người đều có quyền được sống theo cách mà họ mong muốn, không
phải dựa trên giới tính mà xã hội quy định.
Bên cạnh đó, chúng ta cần cung cấp hỗ trợ và tạo điều kiện cho những người
thuộc cộng đồng LGBT, những người thường là nạn nhân của sự kì thị và phân biệt đối
xử. Chúng ta cần đưa ra các chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của họ, đồng thời
tạo ra một môi trường công bằng và đa dạng để họ có thể tự do thể hiện bản thân mình
mà không sợ bị kì thị hay phân biệt đối xử. Ngoài ra, cần phải tăng cường giáo dục về
giới tính và sự đa dạng giới tính, nhằm nâng cao nhận thức và kiến thức của mọi người
về vấn đề này, từ đó giảm thiểu sự kì thị và phân biệt đối xử.
Tuy nhiên, giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính không thể chỉ dừng lại ở
những biện pháp trên mà còn cần phải thay đổi cách suy nghĩ và tư duy của mọi người. lOMoARcPSD| 36443508
Chúng ta cần phải thay đổi những quan điểm sai lầm, giảm thiểu sự kì thị và phân biệt
đối xử trong xã hội, và xây dựng một cộng đồng văn minh, đa dạng và tôn trọng giới
tính. Chỉ khi chúng ta đồng lòng hành động, thay đổi tư duy và thay đổi cách suy nghĩ
của mọi người, chúng ta mới có thể giải quyết được vấn đề bất bình đẳng giới tính và
xây dựng một xã hội công bằng và bình đẳng cho tất cả mọi người.
1.2. Bất bình đẳng giới.
1.2.1. Khái niệm cơ ả bn vềề bấất bình đẳng giới.
Bất bình đẳng giới là một tình trạng xã hội phổ biến, cho thấy sự khác biệt và
không công bằng giữa các giới tính. Nó bao gồm những định kiến xã hội, quy định pháp
luật, thái độ phân biệt giới tính và những hành động kì thị và phân biệt đối xử.
Bất bình đẳng giới thường xảy ra ở mọi lĩnh vực trong xã hội, từ công việc, giáo
dục, chính trị, gia đình đến cuộc sống cá nhân. Ví dụ, trong công việc, phụ nữ thường
bị trả lương thấp hơn so với nam giới, dù có cùng trình độ và kinh nghiệm. Trong giáo
dục, nhiều trường học vẫn có các quy tắc phân biệt giới tính, giới hạn sự lựa chọn của
học sinh dựa trên giới tính của họ. Trong gia đình, phụ nữ thường bị đặt vào vị trí kém
hơn so với nam giới và phải chịu trách nhiệm chăm sóc gia đình và nuôi dạy con cái
một cách nặng nhọc hơn.
Bất bình đẳng giới ảnh hưởng không chỉ đến những người bị phân biệt đối xử,
mà còn đến toàn bộ xã hội. Nó làm giảm hiệu quả và sản lượng lao động, tạo ra những
căng thẳng, xung đột và gây ra những vấn đề về tâm lý và sức khỏe của các nạn nhân.
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lềnin vềề bình đẳng giới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một trường phái tư tưởng chính trị và kinh tế có ảnh
hưởng lớn trong lịch sử thế giới. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng
giới được hình thành dựa trên quan niệm về vai trò của giai cấp và cách mà bất bình
đẳng giới phản ánh bất bình đẳng kinh tế, xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bất bình đẳng giới là một hình thức
bất bình đẳng xã hội, phản ánh sự chia rẽ giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin cho rằng bất bình đẳng giới được tạo ra bởi cấu trúc giai cấp và tầng
lớp của xã hội. Theo đó, bất bình đẳng giới không phải là một hiện tượng độc lập, mà
được phản ánh và bị tác động bởi các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị khác nhau. lOMoARcPSD| 36443508
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, cần
phải xóa bỏ các yếu tố gây ra sự chia rẽ và phân biệt đối xử giữa các tầng lớp và giai
cấp trong xã hội. Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng coi trọng việc giáo dục và nâng
cao nhận thức của nhân dân về bình đẳng giới, nhằm thay đổi tư tưởng và tạo ra một
tầng lớp lao động phản đối bất bình đẳng giới.
Trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lãnh đạo cách mạng ở nhiều quốc gia,
đưa ra nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới. Các biện pháp này bao
gồm việc phân bổ tài nguyên và cơ hội công bằng hơn giữa các giai cấp và tầng lớp,
đồng thời đưa ra các chính sách về giáo dục và đào tạo để tăng cường nhận thức và giải
quyết vấn đề bất bình đẳng giới.
Tuy nhiên, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới cũng không
được chấp nhận hoàn toàn bởi một số người. Một số nhà phê bình cho rằng quan điểm
này thiếu nhạy cảm với vấn đề đa dạng giới tính và bất bình đẳng giới định kiến trong xã hội hiện đại.
Ngoài ra, trong thực tế, các chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của người
đồng tính, người chuyển giới, và những người khác thuộc cộng đồng LGBT vẫn còn
nhiều hạn chế và khó khăn. Những người này vẫn thường bị kì thị và phân biệt đối xử
trong nhiều lĩnh vực của đời sống, bao gồm cả giáo dục, công việc, y tế, và gia đình.
Vì vậy, chúng ta cần cùng nhau đấu tranh và thực hiện các biện pháp để đảm bảo
bình đẳng giới và đa dạng giới tính, bao gồm việc giáo dục, tuyên truyền, đưa ra chính
sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của người LGBT, và cung cấp hỗ trợ cho những
người bị phân biệt đối xử và kì thị. Chỉ khi mà tất cả chúng ta đều được đối xử bình
đẳng và có cơ hội phát triển sẽ xã hội được coi là văn minh và phát triển.
1.2.3. Tư ưở tng Hồề Chí Minh vềề bình đẳng giới.
Có thể thấy, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa sử dụng cụm từ “bình đẳng
giới”. Người chỉ bàn về vấn đề giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình quyền.
Nhưng đây cũng chính là nội dung cốt lõi của vấn đề bình đẳng giới hiện nay mà thế
giới và Việt Nam đang quyết tâm theo đuổi vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Những tư tưởng cốt lõi về bình đẳng giới của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở một số luận điểm sau: lOMoARcPSD| 36443508
- Thứ nhất, phụ nữ là phân nửa xã hội, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải giải phóng
phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền. Là học trò xuất sắc của C.Mác và V.I.Lênin, am
hiểu lịch sử dân tộc và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt
thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên gắn
liền cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc với cuộc đấu tranh cho bình đẳng, tự do và phát
triển của phụ nữ Việt Nam. Trong những năm đi bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã
có dịp tìm hiểu nhiều cuộc cách mạng diễn ra trên thế giới. Người rút ra kết luận, chỉ có
Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng “đến nơi”, hay còn gọi là cuộc cách
mạng triệt để, nghĩa là đem lại quyền làm chủ xã hội thực sự cho người dân. “Chính
nhờ cuộc cách mạng này mà cơ sở của quyền tự do chân chính và quyền bình đẳng thực
sự đã được đặt ra cho loài người. Chính nhờ cuộc cách mạng này mà sự giải phóng phụ
nữ sẽ có giá trị và có những ý nghĩa đầy đủ, trọn vẹn” Vì vậy, Hồ Chí Minh đã lựa chọn
con đường cách mạng vô sản, nhằm giành lại độc lập hoàn toàn cho dân tộc, ấm no tự
do hạnh phúc thực sự cho nhân dân và để thực sự giải phóng cho phụ nữ thoát khỏi cả
ách áp bức dân tộc lẫn ách áp bức xã hội. Người luôn động viên phụ nữ tham gia vào
sự nghiệp cách mạng cùng dân tộc, bởi theo Người, giải phóng phụ nữ - bản thân nó
cũng là một cuộc cách mạng, là một trong những mục tiêu lớn của cách mạng, nó luôn
gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trong Văn kiện thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, Hồ Chí Minh chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng
không chỉ giành độc lập cho dân tộc,... các quyền dân chủ tự do cho nhân dân, mà còn
nhằm “thực hiện nam nữ bình quyền”. Người nhấn mạnh rằng dưới chế độ phong kiến
thực dân, phụ nữ bị áp bức tàn tệ. Ngoài xã hội thì phụ nữ bị xem khinh là nô lệ. Ở gia
đình thì họ bị kìm hãm trong xiềng xích “tam tòng”; cũng dưới chế độ thực dân, phong
kiến, nhân dân ta bị áp bức, bóc lột thì phụ nữ ta bị áp bức, bóc lột nặng nề hơn... “Điều
đó chứng tỏ rằng vì quyền lợi của đàn bà con gái An Nam mà chúng ta làm cách mạng”.
Từ cảm nhận sâu sắc nỗi “khổ nhục” của người phụ nữ dưới chế độ thực dân phong
kiến, Người càng ý thức hơn chính phụ nữ là lực lượng “một nửa” thành công của cách
mạng. Người luôn nhấn mạnh khả năng cách mạng của phụ nữ và sớm nhận thấy nhân
tố góp phần thắng lợi của cuộc cách mạng ấy chính là phụ nữ: “Xem trong lịch sử cách
mệnh, chẳng có lần nào là không có đàn bà, con gái tham gia” và “An Nam cách mệnh
cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”. Người có những luận điểm thể hiện lOMoARcPSD| 36443508
tầm nhìn chiến lược khi đặt vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam
nữ trong tương quan phát triển của xã hội mới, của chủ nghĩa xã hội: “Nói phụ nữ là nói
phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người.
Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”. Đánh giá cao
vai trò của phụ nữ khi nhìn nhận họ là lực lượng lao động đông đảo của xã hội, Người
còn thấy rõ khả năng làm việc không thua kém nam giới của phụ nữ. Người nêu những
tấm gương tiêu biểu của phụ nữ như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyễn Thị Minh Khai,
Nguyễn Thị Định... Người nói, trên thế giới chưa có nơi nào phụ nữ làm Phó Tổng Tư
lệnh như ở miền Nam nước ta. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, kính trọng phụ nữ,
thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, bảo đảm quyền lợi của phụ nữ là bản chất của chế
độ ta; trong đó, vị trí xã hội của chị em được Người đặc biệt quan tâm.4
Thứ hai, giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền là nhiệm vụ của Đảng,
Nhà nước và bản thân chị em phụ nữ. Người luôn theo dõi sát sao và tạo mọi điều kiện
cho phụ nữ tham gia vào sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng nhà nước.
Đặc biệt, Người rất quan tâm đến công tác phát triển đảng trong quần chúng phụ nữ.
Khi làm việc với các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương, Người luôn chú ý đến
số lượng cán bộ nữ. Người hiểu rõ khả năng to lớn của phụ nữ trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội: “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ nữ đã trở thành cán bộ
chuyên môn các ngành và cán bộ lãnh đạo, làm giám đốc và phó giám đốc các xí nghiệp,
chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, chủ tịch ủy ban hành chính, bí thư chi bộ đảng, v.v..”
và Người vui mừng trước việc ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào công việc quản
lý: “Từ ngày nước ta được giải phóng đến nay, phụ nữ đều tiến bộ rõ về mọi mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhưng một trong những tiến bộ rõ rệt nhất là phụ nữ ta hiện
nay tham gia chính quyền ngày càng nhiều”. Thực hiện nam nữ bình quyền, theo Hồ
Chí Minh: “Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó. Vì trọng trai khinh gái là một thói
quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi
tầng lớp xã hội”. Để thực hiện 100% bình quyền, bình đẳng nam nữ, Hồ Chí Minh nhắc
nhở chị em “phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xóa bỏ
tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập”10. Người chỉ rõ cho các
4 Tạp chí tổ chức Nhà nước, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_su_van_dung_cua_Dang_C
ong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016 lOMoARcPSD| 36443508
cấp ủy đảng và chính quyền “phải có phương pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao hơn
nữa địa vị của phụ nữ”. Quan tâm tới vị trí của phụ nữ trong xã hội, Hồ Chí Minh cũng
đồng thời nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, một trong những nhiệm vụ của phụ nữ dưới
chế độ ta là phải “hăng hái tham gia chính quyền”. Người còn nói, nếu cán bộ lãnh đạo
là nữ mà ít, đấy là một thiếu sót của Đảng. Nguyên nhân của tình trạng phụ nữ ít được
tham gia lãnh đạo quản lý, theo Người là vì: “Nhiều người còn đánh giá không đúng
khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai” Không chỉ phê bình
những tư tưởng hẹp hòi đối với phụ nữ, Người còn đòi hỏi phải tích cực sửa chữa. Người
đã đặt trách nhiệm của Đảng đối với sự phát triển của phụ nữ. Người khẳng định: Phải
giải phóng phụ nữ thực sự, giải phóng phụ nữ thì bằng pháp luật, chính sách, biện pháp
cụ thể: “Từ nay, các cấp đảng, chính quyền địa phương khi giao công tác cho phụ nữ,
phải căn cứ vào trình độ của từng người và cần phải tích cực giúp đỡ phụ nữ nhiều hơn
nữa”, “phải thực sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”... “Đảng và
Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày
thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ
thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự
cho phụ nữ”. Hồ Chí Minh còn đặt vấn đề về phụ nữ, phát huy vai trò và phát triển năng
lực sáng tạo của phụ nữ, coi đó là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó có sự tự vươn
lên của chị em phụ nữ: Đảng và Chính phủ ta cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi
dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để người phụ nữ phụ trách ngày càng thêm nhiều mọi công
việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân người phụ nữ thì phải cố gắng. Đó là một cuộc
cách mạng đưa đến quyền bình đẳng cho phụ nữ.5
Như vậy, bình đẳng giới theo tư tưởng của Hồ Chí Minh: Thứ nhất, phụ nữ có
vai trò rất quan trọng trong xã hội không chỉ vì họ là lực lượng lao động to lớn, mà còn
vì họ là những người tham gia xây dựng, cải tạo xã hội. Ngoài thiên chức làm mẹ, thì
khả năng làm việc, sức sáng tạo khi làm việc cho cộng đồng của phụ nữ không thua
kém đàn ông. Thứ hai, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội sẽ không mang
tính cách mạng đầy đủ nếu không thực sự giải phóng phụ nữ, bởi vì, họ là một nửa nhân
loại, một nửa xã hội. Thứ ba, dưới chế độ ta - chế độ mọi người dân đều là chủ xã hội,
5 Tạp chí tổ chức Nhà nước, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_su_van_dung_cua_Dang_C
ong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016 lOMoARcPSD| 36443508
nam nữ bình đẳng về vị trí, bình đẳng về quyền lợi, thì phụ nữ phải có vị trí xứng đáng
với vai trò của mình. Lịch sử dân tộc ta cũng đã chứng minh rằng, phụ nữ Việt Nam có
thể làm được và làm tốt mọi công việc to lớn mà lịch sử đòi hỏi, đất nước trao cho. Thứ
tư, cần phải xóa bỏ tàn dư phong kiến trọng nam khinh nữ, coi thường, xem nhẹ khả
năng làm việc xã hội của phụ nữ; chỉ có vậy mới thực sự giải phóng phụ nữ, để cuộc
cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo có ý nghĩa cách mạng đầy đủ, có tính nhân văn sâu sắc.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ
bình đẳng đã trở thành lý tưởng cách mạng, vừa thể hiện ý thức chính trị, lòng nhân ái
vừa thể hiện giá trị văn hóa, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản của Người.
2. Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay.
2.1. Các thực trạng liên quan đến bất bình đẳng giới trong xã hội.
2.1.1. T lỉ ệ giới tính khi sinh (SRB).
Một trong những chỉ số quan trọng được Tổng cục Thống kê tiến hành điều tra
trong cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là Tỷ số giới tính khi sinh - SRB
(Chỉ số SRB phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ
số này thông thường là 104-106 bé trai/100 bé gái sinh ra sống). Bất kỳ sự thay đổi đáng
kể nào của SRB chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can thiệp
có chủ ý và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn định dân số
của quốc gia và toàn cầu. lOMoARcPSD| 36443508
(Phạm Thị Huyền, Bất bình đẳng giới từ những thách thức mang tính văn hoá và tình
trạng mất cân bằng giới tính, https://cpcs.vn/ty-so-gioi-tinh-khi-sinh-bat-binh-
thuongcua-viet-nam-va-nhung-hau-qua-co-the-xay-ra-d38282.html, ngày truy cập 14– 9– 2021)
Theo Tổng cục Thống kê, SRB của Việt Nam có xu hướng tăng hơn so với mức
sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay, đưa ra bằng chứng về mất cân bằng giới tính
khi sinh tại Việt Nam. Trong đó, SRB năm 2019 giảm so với năm 2018 nhưng vẫn ở
mức cao (năm 2018: 114,8 bé trai/100 bé gái; năm 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái).
Sự gia tăng bất thường về SRB của Việt Nam trong những năm gần đây đang là
mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách. Theo đó, những cảnh báo về hệ lụy
của sự mất cân bằng giới tính khi sinh và sự quyết liệt thực hiện các chính sách nhằm
xóa bỏ sự can thiệp có chủ đích trong lựa chọn giới tính khi mang thai ở Việt Nam trong
thời gian qua chưa đem lại hiệu quả; tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh chưa được khắc phục.
Kết quả điều tra cho thấy, SRB của khu vực thành thị thấp hơn nông thôn, tương
ứng là 110,8 và 111,8 bé trai/100 bé gái. SRB giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể,
SRB cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng (115,5 bé trai/100 bé gái) và thấp nhất ở Đồng
bằng sông Cửu Long (106,9 bé trai/100 bé gái). Sự khác biệt của SRB giữa khu vực
thành thị và nông thôn thuộc Đồng bằng sông Hồng cũng cao nhất cả nước. SRB của
Trung du và miền núi phía Bắc năm 2009 là 108,5 bé trai/100 bé gái, tăng lên 114,2 bé
trai/100 bé gái năm 2019. SRB của Đồng bằng sông Hồng năm 2009 là 115,3 bé trai/100
bé gái, tăng nhẹ lên 115,5 bé trai/100 bé gái năm 2019. Qua 10 năm, mức tăng SRB của
Trung du và miền núi phía Bắc nhiều hơn mức tăng SRB của Đồng bằng sông Hồng.
Có thể thấy, mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do một số nguyên
nhân như: Sự ưa thích sinh con trai trong bối cảnh giảm sinh, văn hóa Nho giáo với
phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên cũng
như đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình và xã hội tại mỗi vùng, miền và việc
tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới tính thai nhi khi mang thai
hoặc chuẩn đoán giới tính thai nhi dẫn tới nạo phá thai vì lý do lựa chọn giới tính, … lOMoARcPSD| 36443508
Việc lựa chọn giới tính trước khi sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới sâu
sắc. Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy tới cấu trúc gia
đình và các vấn đề xã hội trong tương lai của tình trạng mất cân bằng giới tính hiện nay,
tình trạng thiếu hụt số trẻ em gái quan sát được gần đây ở nhiều quốc gia sẽ dẫn đến
tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi trong tương lai.
Tổng cục Thống kê nhận định, cấu trúc dân số trong những thập kỷ tới sẽ mang
dấu ấn của việc lựa chọn giới tính hiện tại, với quy mô dân số nam vượt trội trong một
thời gian dài. Theo các nhà khoa học xã hội, tác động chính của hiện tượng mất cân
bằng giới tính khi sinh sẽ liên quan tới quá trình hình thành và cấu trúc gia đình, đặc
biệt là hệ thống hôn nhân.
Nam giới trẻ tuổi sẽ bị dư thừa so với nữ do tỷ lệ nữ giới đang giảm dần trong
cùng một thế hệ và kết quả là họ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng
khi tìm kiếm bạn đời. Trì hoãn hôn nhân trong nam giới hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc
thân là những khả năng có thể xảy ra trong tương lai do tình trạng thiếu phụ nữ trong
độ tuổi kết hôn. Điều này sẽ tác động ngược lại hệ thống gia đình trong tương lai.
Lựa chọn giới tính trước khi sinh là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng mất
cân bằng giới tính khi sinh. Do đó, số liệu theo dõi các diễn biến của SRB là cần thiết,
nhằm đưa ra các can thiệp kịp thời về chính sách và chương trình.6
2.1.2 Bấất bình đẳng trong giáo dục.
Giáo dục là phương tiện hiệu quả nhất để con người gia tăng kiến thức và sự tự
tin, đủ khả năng vươn lên, thay đổi cuộc sống, gia tăng cơ hội và phúc lợi. Tuy nhiên,
phụ nữ và trẻ em gái chưa được tiếp cận giáo dục công bằng như nam giới và trẻ em
nam do nghèo đói, quy tắc văn hóa và thông lệ, định kiến. Theo tổ chức Women
WorldWide Web (W4), trên thế giới còn hàng triệu phụ nữ và trẻ em phải chịu nghèo
đói và không được đi học, hai phần ba số người mù chữ toàn cầu là phụ nữ (Women
WorldWide Web, 2018). Giáo dục cho phụ nữ và trẻ em gái là cách tốt nhất để trao
quyền cho nhóm đối tượng này, giúp bản thân họ có đầy đủ kiến thức và khả năng để
quyết định tương lai của mình, có công việc và thu nhập tôt hơn, tăng cường khía cạnh
6 Nguyễn Văn Phái, “Tỷ số giới tính khi sinh bất bình thường của Việt Nam và những hậu quả có thể xảy ra”,
https://kinhtedothi.vn/ty-so-gioi-tinh-khi-sinh-bat-binh-thuong-cua-viet-nam-va-nhung-hau-qua-co-the-
xayra.html, ngày truy cập 09/09/2021. lOMoARcPSD| 36443508
kinh tế và xã hội cho gia đình, hòa nhập và cống hiến cho xã hội nhiều hơn và đóng góp
tốt hơn cho phúc lợi xã hội. Trong gia đình, một người mẹ được đi học sẽ nuôi dạy con
cái cả về giáo dục và sức khỏe tốt hơn, tạo ảnh hưởng tích cực trên phạm vi gia đình và cộng đồng.
Tỷ lệ nhập học đúng tuổi tăng theo thời gian, nhưng nữ vẫn chịu thiệt thòi hơn
nam trong tiếp cận giáo dục phổ thông. Hình 1 cho thấy trong giai đoạn 2010-2016, tỷ
lệ nhập học đúng tuổi của cả nam và nữ tăng và nhìn chung đạt được bình đẳng giới về
giáo dục tiểu học. Năm 2016 có khoảng 93,1% trẻ em nam và 93,2% trẻ em nữ trong
độ tuổi 6-10 tuổi tham gia học tiểu học. Với hai bậc học cao hơn (trung học cơ sở--
THCS và THPT—THPT), khoảng cách giới đã được thu hẹp, nhưng vẫn còn do tỷ lệ
gia tăng nữ nhập học đúng tuổi thấp hơn nam.
(Tỷ lệ nhập học đúng tuổi của nam – nữ (%), Diễn biến bình đẳng giới trong giáo
dục những năm vừa qua, http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx? newid=21121,
ngày truy cập 15–7–2022)
Về bằng cấp cao nhất đạt được, có sự dịch chuyển đáng khích lệ ở cả hai giới
theo hướng tỷ lệ người không có bằng cấp hoặc có bằng tiểu học giảm, tỷ lệ đạt bằng
cấp từ THCS trở lên tăng trong giai đoạn 2010-2016. Tỷ lệ nữ không bằng cấp vẫn còn
cao, năm 2016 vẫn còn 22,4% nữ giới không có bằng cấp, cao hơn con số 19,8% của
nam giới. Tỷ lệ người có bằng cấp từ THCS trở lên tăng, đặc biệt với giáo dục chuyên
nghiệp từ cấp cao đẳng (Hình 2). Điều này một mặt thể hiện cơ hội giáo dục mở rộng
hơn cho mọi đối tượng, mặt khác cho thấy xu thế giáo dục trong những năm gần đây
khi phần lớn học sinh tốt nghiệp THPT thi tuyển vào bậc cao đẳng, đại học thay vì tham
gia học nghề. Tuy nhiên, tỷ lệ nữ đạt được bằng cấp này đều thấp hơn nam. lOMoARcPSD| 36443508
(Bằng cấp cao nhất đạt được của nam – nữ (%), Diễn biến bình đẳng giới trong giáo dục
những năm vừa qua, http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?newid=21121, ngày truy cập 15–7–2022)
Tóm lại, nhờ nỗ lực và các chính sách của Chính phủ, cơ hội tham gia giáo dục
được mở rộng cho cả nam và nữ. Tuy khoảng cách về tỷ lệ tiếp cận và bằng cấp giáo
dục đạt được giữa hai giới đã giảm, phụ nữ và trẻ em gái vẫn thiệt thòi hơn trong tiếp
cận giáo dục so với nam giới và trẻ em trai. Cần có các chính sách mạnh mẽ hơn để đến
năm 2020 đạt được mục tiêu về bình đẳng giới trong giáo dục.7
2.1.3 Bấất bình đẳng trong hồn nhấn và gia đình.
Điều tra quốc gia bạo lực với phụ nữ được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội,
Tổng cục Thống kê, Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam thực hiện năm 2019, công
bố năm 2020 cho thấy, năm 2019, có 31,6% phụ nữ phải chịu ít nhất một hình thức bạo
lực trong 12 tháng (kể từ lúc điều tra). Cứ 3 phụ nữ thì có gần 1 người (32%) bị chồng
bạo lực thể xác hoặc bạo lực tình dục.
Có 90,4% phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác và/hoặc tình dục không tìm kiếm sự
giúp đỡ, chỉ có 4,8% tìm kiếm sự giúp đỡ của công an.
Năm 2019, bạo lực gia đình với phụ nữ gây thiệt hại 1,8% GDP (tăng 0,2% so với năm 2012).
7 “Diễn biến bình đẳng giới trong giáo dục những năm vừa qua”, http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?
newid=21121, ngày truy cập 26/12/2018. lOMoARcPSD| 36443508
Mặc dù Luật bình đẳng giới năm 2005 đã có những quy định về bình đẳng giới
trong gia đình đồng thời tại các luật chuyên ngành như Luật hôn nhân và gia đình cũng
quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên. Tuy nhiên, thực trạng bình đẳng giới
trong gia đình hiện nay, định kiến giới và tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” vẫn tồn tại
khá phổ biến trong gia đình và một bộ phận dân cư xã hội, trở thành rào cản trong quá
trình thực hiện BĐG. Vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội nói chung và trong gia
đình nói riêng vẫn tồn tại dẫn đến tình trạng BLGĐ tuy có giảm nhưng vẫn còn xảy ra. Biểu hiện ở chỗ: -
Thứ nhất, thách thức về vấn đề duy trì nòi giống. Áp lực sinh con trai nối dõi
tronggia đình là một vấn đề không mới, nó tồn tại trong xã hội Việt Nam từ rất lâu.
Ngày nay, mặc dù đã được tiếp cận với những tư tưởng hiện đại về bình đẳng giới
nhưng bên trong mỗi mãi ấm vẫn luôn tồn tại một đợt sóng ngầm đến từ bố mẹ chồng,
từ người chồng của mình. Áp lực ấy tác động đến cuộc sống của người phụ nữ. -
Thứ hai, về sự phân công lao động trong gia đình giữa người vợ và người
chồng.Hiện nay trong gia đình, đa số người phụ nữ phải làm việc nhiều hơn nam giới.
- Thứ ba, về vấn đề đóng góp kinh tế trong gia đình. Trong gia đình vẫn có quan niệm
người đàn ông là trụ cột kinh tế. Vì vậy, nhiều trường hợp, người vợ ở nhà nội trợ bị
coi là ăn bám, không có tiếng nói trong gia đình. Nhưng ngược lại, cũng có nhiều trường
hợp chính người phụ nữ phải tự bươn chải, lo toan cuộc sống gia đình. Vấn đề kinh tế
cũng là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong gia đình. -
Thứ tư, về vấn đề duy trì hạnh phúc, chống bạo hành trong gia đình. Bởi ngày
nay đasố các cặp vợ chồng trẻ sống riêng, tự lập. Chính môi trường tự lập, tạo cho sự
thoải mái nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho người phụ nữ: vấn đề làm thế nào để
duy trì hạnh phúc, vấn đề bạo lực gia đình. Bởi, thực tế cho thấy, hiện nay, gia đình trẻ
có chiều hướng ly hôn khá tăng.
Tóm lại, bình đẳng giới trong gia đình là một môi trường lành mạnh để con
người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em được đối xử bình đẳng là tiền đề quan trọng cho sự
thành công trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em.8
2.1.4. Bấất bình đẳng giới trong kinh tềấ, lao động – việc làm.
8 “Diễn biến bình đẳng giới trong giáo dục những năm vừa qua”, http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?
newid=21121, ngày truy cập 26/12/2018. lOMoARcPSD| 36443508
Bất đẳng định giới là một vấn đề đáng quan tâm trong kinh tế lao động và việc
làm. Nó thể hiện sự khác biệt về cơ hội tiếp cận và định hướng sự nghiệp giữa nam và
nữ. Tuy nhiên, bất đẳng định giới không chỉ xuất hiện ở việc trả lương hay quyền lợi
của nam và nữ, mà còn ở cả việc phân bổ vị trí và công việc. Nhiều nghiên cứu đã chỉ
ra rằng, nữ thường bị đẩy vào các ngành nghề ít được đánh giá cao và thiếu cơ hội thăng
tiến. Điều này có thể dẫn đến sự thiếu cân bằng về lực lượng lao động giữa nam và nữ,
ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế và xã hội. Do đó, cần có những nỗ lực để giảm
thiểu bất đẳng định giới trong kinh tế lao động và việc làm, bao gồm việc tạo ra chính
sách hỗ trợ phụ nữ, đẩy mạnh giáo dục và đào tạo đối tượng nữ để nâng cao năng lực
và kỹ năng cho họ, cũng như thay đổi nhận thức xã hội về vai trò và giá trị của nam và nữ trong công việc.
2.2. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giới.
2.2.1. Quan niệm xã hộ ại l c hậu.
Quan niệm xã hội lạc hậu là những giá trị, quan điểm và thái độ bị lạc hậu, không
phù hợp với thời đại hiện đại và xã hội tiên tiến. Những quan niệm xã hội lạc hậu thường
gây ra sự bất công, phân biệt đối xử và giới hạn sự phát triển của xã hội. Ví dụ, một
quan niệm xã hội lạc hậu là việc coi trọng quyền lực và vị trí của đàn ông hơn là của
phụ nữ. Những quan điểm như vậy đã góp phần tạo ra sự bất bình đẳng giới, khiến phụ
nữ bị hạn chế quyền lực và tiếp cận với các cơ hội và tài nguyên quan trọng như giáo dục và việc làm.
Các quan niệm xã hội lạc hậu cũng có thể phản ánh qua các định kiến về tôn
giáo, chủng tộc hoặc văn hóa. Những giá trị này có thể gây ra sự phân biệt đối xử và bất
công trong xã hội. Ví dụ, các quy tắc định nghĩa giới tính và hành vi tình dục của cộng
đồng LGBT+ vẫn chưa được nhiều người chấp nhận do quan niệm xã hội lạc hậu và
định kiến về giới tính.
Tuy nhiên, để giải quyết các vấn đề này, chúng ta cần đưa ra các giải pháp mang
tính hiện đại và phù hợp với thời đại, như truyền thông thông minh, giáo dục bình đẳng
giới, và các chính sách xã hội công bằng để giảm bớt sự bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử trong xã hội.
2.2.3. Suy nghĩ, quan niệm chấp nhận của phụ nữ. lOMoARcPSD| 36443508
Phụ nữ luôn có những suy nghĩ và quan niệm riêng của mình, chính vì vậy họ
cũng cần được tôn trọng và chấp nhận những suy nghĩ, quan điểm của mình.Phụ nữ
thường có tầm nhìn rộng và sâu sắc về cuộc sống, họ có khả năng suy nghĩ tư duy phân
tích và đưa ra những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên, trong một số xã hội vẫn còn tồn
tại định kiến và giới hạn đối với phụ nữ, khiến cho suy nghĩ và quan điểm của họ không
được chấp nhận và tôn trọng.
Ví dụ, trong một số quốc gia, phụ nữ bị coi thường và bị hạn chế quyền lực và
tham gia vào các quyết định quan trọng trong gia đình, xã hội và chính trị. Điều này gây
ra sự bất bình đẳng giới và làm giảm giá trị của suy nghĩ và quan điểm của phụ nữ.
Tuy nhiên, với sự tiến bộ của thời đại và nỗ lực của các nhà hoạt động xã hội, tư
tưởng về sự bình đẳng giới đang dần được chấp nhận và lan rộng hơn. Phụ nữ đang có
được nhiều cơ hội để thể hiện và phát triển suy nghĩ và quan điểm của mình trong nhiều
lĩnh vực, từ kinh doanh đến chính trị và nghệ thuật.
Những suy nghĩ và quan điểm của phụ nữ rất quan trọng và cần được lắng nghe
và tôn trọng. Việc chấp nhận những suy nghĩ và quan điểm của phụ nữ là một bước tiến
quan trọng trong việc đẩy mạnh sự bình đẳng giới và xây dựng một xã hội phát triển và tiến bộ hơn.
2.3. Kết quả của bất bình đẳng giới.
2.3.1. Hậu quả ủ c a quan niệm xã hội họ ạc l c hậu.
Quan niệm xã hội học lạc hậu là những sai lầm của con người trong việc nhận
thức xã hội loài người. Trong lịch sử loài người, quan niệm xã hội học lạc hậu đã tồn
tại dai dẳng và xuất hiện nhiều quan niệm lệch lạc sai làm khác nhau, một số xuất phát
từ sự thiếu hiểu biết của con người, một số lại bị chi phối từ riêng lẻ những tầng lớp
trong xã hội gây ra sự bất bình đẳng xã hội.
Hậu quả của quan niệm xã hội học lạc hậu là rất lớn, chúng không chỉ làm giảm
đi chất lượng đời sống tinh thần của xã hội con người mà còn làm hạn chế con người
trong công việc phát triển khoa học kỹ thuật. Những quan niệm xã hội học lạc hậu tác
động tiêu cực đến một số bộ phận trong xã hội, làm gia tăng sự bất bình đẳng trong xã
hội, một số quan niệm còn làm cho nhận thức của con người trở nên suy đồi, sai so với
chuẩn mực của hiện tại, làm mất đi giá trị nội tại của bản than con người, không ít bộ
phận trong xã hội loài người đã là nạn nhân của những quan niệm xã hội lạc lậu này, lOMoARcPSD| 36443508
những bộ phận này đã mất đi quyền tự chủ, quyền được tham gia vào các hoạt động xã
hội nói chung, gây ra sự mất cân bằng trong xã hội. Nhìn chung, những quan niệm lạc
hậu sẽ dẫn đến chất lượng đời sống xã hội của con người đi xuống, gây ra sự bất bình
đẳng giới, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ xã hội.
Không chỉ riêng về tác hại đối với đời sống tinh thần của xã hội, những quan
niệm xã hội lệch lạc còn làm cho con người giảm đi khả năng nghiên cứu phát triển
khoa học kỹ thuật. Những quan niệm lệch lạc này gây ra những nhầm tưởng về thế giới
quan của con người, góp phần kiềm hãm đi sự phát triển của con người trong phát triển
khoa học kỹ thuật. Không ít những nhà khoa học đã phải chịu khó khan, cản trở từ
những quan niệm xã hội học lạc hậu này, và cũng đã có nhiều nhân vật trong lịch sử
thậm chí phải mất cả tính mạng của mình khi phải đấu tranh cho cái lý bị chèn ép bởi
những quan niệm lệch lạc vô lý. Chừng ấy là mất mác lớn đối với công cuộc phát triển
của toàn thể nhân loại. Nói như vậy để cho chúng ta thấy, nhưng quan niệm xã hội học
lạc hậu là vô cùng độc hại, chúng làm con người chậm chân một nhịp trên con đường
phát triển về xã hội và khoa học.
2.3.2. Kềất quả ủ ca suy nghĩ, quan niệm chấấp nhận của phụ ữ n .
Suy nghĩ, quan niệm chấp nhận của phụ nữ được hình thành từ quan niệm trọng
nam khinh nữ trong xã hội lúc xưa, một xã hội mang nặng sự bất bình đẳng giới trong
xã hội lúc bấy giờ. Những chấp niệm này của phụ nữ sinh ra là kết quả của sự độc hại
dăng dẳng của xã hội bất bình đẳng giới, làm cho những hy vọng hay ý chí của bộ phận
phụ nữ trong xã hội mai một đi, để cho những chấp niệm này thay thế. Những quan
niệm chấp nhận số phận trong bộ phận phụ nữ là một công cụ tự vệ của phụ nữ giúp
phụ nữ có thể sống sót và sinh tồn dưới sự chèn ép của xã hội đầy sự bất bình đẳng này.
Song, khi xã hội đã trở nên văn minh, tiên tiến hơn, những chấp niệm này không
còn là đúng nữa. Bởi lẽ trong xã hội hiện nay, con người đã ít nhiều không còn sự tồn
tại của bất bình đẳng giới nữa, và con người nói chung, hay bộ phận phụ nữ nói riêng
đã có them nhiều cho mình những công cụ giúp cho tiếng nói của mình được chất lượng
hơn lúc trước. Phụ nữ đã có quyền được quyết định, kiểm soát đời sống xã hội của mình
cũng như quyền tham gia vào hoạt động xã hội của con người. Đây là lúc mà chúng ta
có thể thấy rằng quan niệm chấp nhận của phụ nữ cũng mang một tác hại tiêu cực đến xã hội. lOMoARcPSD| 36443508
Những quan niệm chấp nhận của phụ nữ trong xã hội hiện nay không còn được
coi là một công cụ hữu ích nữa mà nó được coi như là một sự nhùn bước trước các quan
niệm xã hội lệch lạc xấu xa. Những chấp niệm chính là những mầm móng, nguy cơ gây
ra sự bất bình đẳng ở một số bộ phận, làm cản trở thúc tiến hoạt động xã hội, một nguy
cơ gây ra sự bất bình đẳng giới ở bộ phận nhỏ hơn toàn cầu. Đây cũng chính là những
bất cập trong hoạt động tuyền truyền công tác xã hội đến với toàn thể bộ phận trong xã
hội, những thiếu sót này sẽ vẫn khiến cho quan niệm chấp nhận của những người phụ
nữ còn tồn tại, và song hành với đó là sự bất bình đẳng giới.
2.3.3. Thành tựu đạt được của Đảng Cộng sản Việt Nam đồấi với vấấn đềề bấất
bình đẳng giới.
Trong thời đại hiện nay, bất bình đẳng giới vẫn là một trong những vấn đề nóng
hổi và cần được giải quyết một cách nghiêm túc. Tuy nhiên, chưa có nhiều quốc gia có
thể đạt được những thành tựu như Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc giảm bớt bất bình đẳng giới.
Với những nỗ lực không ngừng trong suốt hơn 70 năm qua, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc giảm bớt bất bình đẳng giới: -
Đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách và biện pháp để
nângcao vị trí và vai trò của phụ nữ trong xã hội. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký văn kiện đàn áp phong kiến, bóc lột nhân dân và xóa bỏ bất bình đẳng giới. Từ đó,
nhiều cơ chế đã được đưa ra như đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, cung cấp chương
trình đào tạo và hỗ trợ kinh tế cho phụ nữ. Điều này đã giúp cho phụ nữ có thể tham gia
vào các hoạt động kinh tế, chính trị và xã hội, từ đó nâng cao đáng kể vị trí và vai trò
của phụ nữ trong xã hội. -
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra các chính sách để giảm bớt bất
bìnhđẳng giới trong lĩnh vực kinh tế và chính trị. Điều này đã giúp cho phụ nữ có thể
tiếp cận với các cơ hội kinh doanh và đóng góp vào nền kinh tế. Đồng thời, phụ nữ cũng
đã có thể tham gia vào các cơ quan và tổ chức chính trị, đảm bảo rằng giọng nói và
quan điểm của phụ nữ được đưa vào quyết định quan trọng của xã hội. -
Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã đưa ra các chính sách và biện pháp
để bảovệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình và tình dục, đồng thời tăng cường quản lý và lOMoARcPSD| 36443508
trừng phạt các hành vi phân biệt chủng tộc và giới tính. Điều này đã giúp cho phụ nữ
có thể yên tâm hơn khi tham gia vào xã hội, không sợ bị bạo lực và phân biệt chủng
tộc, giúp họ có thể đóng góp tối đa cho xã hội. -
Cuối cùng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã đưa ra các chính sách và biện pháp
đểđảm bảo quyền và lợi ích của phụ nữ trong các lĩnh vực khác như giáo dục, y tế, văn
hoá và thể thao. Điều này đã giúp cho phụ nữ có được điều kiện tốt hơn để học tập, phát
triển sự nghiệp và thể hiện bản thân, đồng thời đóng góp vào các lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong xã hội.
Những thành tựu đáng kể này đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam giảm bớt bất
bình đẳng giới và nâng cao vị trí của phụ nữ trong xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
thách thức và vấn đề cần phải giải quyết để đạt được tình trạng bình đẳng giới hoàn
toàn. Để giải quyết vấn đề này, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ cần phải tiếp tục đưa ra các
chính sách và biện pháp hiệu quả, cùng với sự tham gia tích cực của toàn xã hội, để xây
dựng một xã hội bình đẳng giới, phát triển và tiến bộ hơn nữa.
Thời gian qua, Việt Nam đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý để
giải quyết vấn đề bình đẳng giới, như: Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013, 7 bộ
luật, 161 luật; Thường vụ Ủy ban của Quốc hội ban hành 15 pháp lệnh, trong đó có
khoảng 45 luật và bộ luật liên quan đến bình đẳng giới; Chính phủ đã ban hành 1413
nghị định để xem xét đưa bình đẳng giới vào Luật Bình đẳng và Luật Công bố văn bản
quy phạm pháp luật. Vào ngày 3 tháng 3 năm 2021, Hội đồng Nhà nước đã phê duyệt
lần cuối Chiến lược bình đẳng giới quốc gia giai đoạn 2021-2030, được ban hành kèm
theo Nghị quyết số 28/NQ-CP. Thông qua việc thực hiện quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, công tác bình đẳng ở nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, góp phần giảm khoảng cách giới, nâng cao vị thế của nam và nữ
trong mọi lĩnh vực của xã hội. mạng sống Việt Nam đứng thứ 60 thế giới, thứ 4 châu
Á, thứ nhất trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á về
tỷ lệ nữ tham gia các cơ quan dân cử; đứng thứ ba trong khu vực
ASEAN và thứ 47/187 quốc gia trên thế giới về bình đẳng giới trong tham gia chính trị
và lãnh đạo. Hiện nay, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt trong các cơ quan đảng và nhà
nước đã tăng lên về lượng và đặc biệt là về chất lượng. Trong Ban Chấp hành Trung
ương khóa XIII có 19 nữ (9,5%). Quốc hội khóa XV đạt 30,26% đảng viên nữ, cao nhất
từ trước đến nay; Tỉnh ủy viên có 16% là nữ, đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh là lOMoARcPSD| 36443508
29%... Ở các bộ, cơ quan ngang bộ, tỷ lệ lãnh đạo cấp cao là nữ chiếm hơn 50%. Việt
Nam có số lượng nữ đại biểu Quốc hội khóa III cao nhất. Tỷ lệ đại biểu Hội đồng nhân
dân là nữ ở cả ba cấp quận, huyện và thành phố trực thuộc Trung ương đều tăng so với
các kỳ bầu cử trước.9
Đạt được bình đẳng giới còn thể hiện ở việc thu hẹp khoảng cách giới trong các
lĩnh vực kinh tế, lao động và việc làm. Trao quyền kinh tế cho phụ nữ, cải thiện khả
năng tiếp cận các nguồn lực kinh tế và cải thiện khả năng tiếp cận thị trường lao động
cho phụ nữ nghèo ở nông thôn và dân tộc thiểu số. Chú trọng phát triển cán bộ quản lý nữ chất lượng cao.
Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ là 26,5%, đứng thứ 9/58 quốc gia và vùng
lãnh thổ được khảo sát. Nhiều nữ doanh nhân có uy tín, vị thế trong nước và quốc tế.
Nhiều chị em đạt giải khu vực và quốc tế trên các lĩnh vực văn hóa, thể thao. Nguồn
nhân lực cho nghiên cứu về phụ nữ đã tăng lên đáng kể. Nhiều chị là giáo sư, giảng
viên, tiến sĩ. Hàng ngàn nhà khoa học nữ đã đạt được nhiều thành tựu trong và ngoài
nước, trong đó có nhiều người nhận giải thưởng nghiên cứu khoa học.
Hơn nữa, hợp tác song phương, thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ
nữ được lồng ghép vào các hoạt động đối ngoại có ý nghĩa thiết thực. Tại Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc, Việt Nam đã chủ trì thông qua Nghị quyết 1889 về vai trò của phụ
nữ trong các xung đột tái thiết (2009), ưu tiên xuyên suốt bằng việc tổ chức hội nghị
quốc tế duy nhất tại Việt Nam, tích cực thúc đẩy “phụ nữ, hòa bình và an ninh”. Để
đánh dấu kỷ niệm 25 năm ra đời chương trình nghị sự này, vào năm 2020, chúng tôi sẽ
thúc đẩy một phụ nữ toàn cầu, hòa bình và an ninh Những thành tựu của Việt Nam về
bình đẳng giới là không thể phủ nhận. Trong hợp tác song phương, việc thúc đẩy bình
đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ được hỗ trợ bởi các hoạt động đối ngoại ở tất cả các
cấp, từ trao đổi, giao nhiệm vụ lãnh đạo, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, đến ký kết và
triển khai các thỏa thuận hợp tác cụ thể, thiết thực với các đối tác
Tuy nhiên, phụ nữ và trẻ em gái vẫn là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương
và cần nhiều cơ hội bình đẳng hơn. Hiện chỉ số bất bình đẳng giới của Việt Nam đứng
thứ 65/162 quốc gia và khu vực. Xếp hạng 87/156 về Chỉ số Thu hẹp Khoảng cách Giới
tính. Mặc dù Việt Nam đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh
9 Hà Lê, “Việt Nam giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”, https://vneconomy.vn/viet-namgiam-
dan-khoang-cach-gioi-trong-linh-vuc-chinh-tri.htm, ngày truy cập 19/10/2022. lOMoARcPSD| 36443508
giá cao về những nỗ lực thực hiện bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, nhưng vẫn
còn tồn tại những vấn đề về xâm hại phụ nữ, đặc biệt là những định kiến về phụ nữ còn
tồn tại và không chỉ gây tổn hại. Đối với những người kém may mắn, nhưng đối với
toàn xã hội. Theo Khảo sát Quốc gia Việt Nam về Bạo lực đối với Phụ nữ, cứ 3 phụ nữ
thì có gần 2 người (gần 63%) cho biết chồng họ đã bị chồng mình hành vi thể chất, tình
dục, tình cảm, tài chính và bạo lực vào năm 20191. Tôi đã trải qua nhiều hơn một lần.
Sinh kế Tỷ lệ lao động nữ phải làm những công việc bấp bênh cao là 59,6%, cao hơn
nhiều so với tỷ lệ của lao động nam là 31,8%. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước vẫn cam
kết mục tiêu tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới và tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và
nam giới tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và được thụ hưởng các lợi ích
bình đẳng. Việt Nam nói riêng đã đặt mục tiêu. Trong lĩnh vực chính trị, tỷ lệ này sẽ đạt
60% vào năm 2025 và đến năm 2030 tỷ lệ này sẽ đạt 75% ở tất cả các cấp chính quyền
bang và địa phương. Trong đời sống kinh tế và nghề nghiệp, mục tiêu là tăng tỷ trọng
của lực lượng lao động và giảm tỷ trọng phụ nữ làm việc trong nông nghiệp xuống 50%
vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030, dưới 25%. Tỷ lệ nữ quản lý, doanh nhân,
hợp tác xã ít nhất là 27% vào năm 2025 và 30% vào năm 2030. Trong các lĩnh vực quản
lý và phòng chống bạo lực gia đình và bạo lực tình dục, bên cạnh việc giảm số giờ trung
bình dành cho công việc chăm sóc và giúp việc gia đình được trả lương cho phụ nữ,
80% người bị bạo lực gia đình và tình dục cũng được yêu cầu thực hiện. Đến năm 2025,
tiếp cận ít nhất các dịch vụ hỗ trợ cơ bản và 50% số người bạo hành gia đình. 10 3. GIẢI PHÁP.
3.1. Giải pháp của chính phủ.
Nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế; phá vỡ rào cản trong công tác bình
đẳng giới và “Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em
gái" qua 08 mục tiêu cụ thể được ghi nhận tại Tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày
10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực
hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững như: Giảm thiểu, tiến tới
chấm dứt các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái trong mọi lĩnh vực và
ở mọi nơi; Giảm đáng kể mọi hình thức bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái nơi công
10 Vũ Hồng, “Cần đẩy mạnh bình đẳng giới góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội”,
http://hoinongdan.org.vn/sitepages/news/1145/86890/can-day-manh-binh-dang-gioi-gop-phan-thuc-day-tien-
boxa-hoi, ngày truy cập 27/06/2019. lOMoARcPSD| 36443508
cộng hoặc nơi riêng tư, bao gồm cả hình thức bóc lột tình dục và các hình thức bóc lột
khác; Đảm bảo sự tham gia đầy đủ, hiệu quả và cơ hội bình đẳng tham gia lãnh đạo của
phụ nữ ở tất cả các cấp hoạch định chính sách trong đời sống chính trị, kinh tế và xã
hội;… cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
- Phải nâng cao nhận thức về bình đẳng giới Hiện nay, tình trạng "trọng nam, khinhnữ"
vẫn đang là một hệ luỵ tư tưởng lớn, không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của nữ giới
mà còn hạn chế sự phát triển của xã hội. Chỉ khi thay đổi được nhận thức, xoá bỏ định
kiến về giới thì mới thay đổi được cách hành xử. Chính vì vậy, cả nam và nữ đều phải
thay đổi nhận thức, xoá bỏ định kiến phân biệt giới và để nâng cao nhận thức về bình
đẳng giới cần thực hiện các biện pháp cụ thể như: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về
bình đẳng giới; Tiến đến xoá bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời có
mang định kiến về giới; Thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm, sinh hoạt, nói chuyện
về bình đẳng giới trong các cơ quan, đơn vị, trong các khu dân cư.
- Tiếp tục hoàn thiện và đẩy nhanh việc thực hiện các quy định về quyền bình đẳnggiới.
Những quy định hiện hành còn nhiều bất cập, hạn chế bình đẳng giới cần phải thay
đổi. Đặc biệt, Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định rõ “Cha, mẹ có nghĩa
vụ và quyền ngang nhau trong việc cùng chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên”.
Tuy nhiên, khoản 4 Điều 2 Nguyên tắc cơ bản trong thực hiện hôn nhân và kế hoạch
hóa gia đình vẫn tiếp tục duy trì định kiến giới và quy định: “giúp người mẹ làm tốt
bổn phận cao cả của mình; thực hiện kế hoạch hóa gia đình”. Sự sắp xếp này không
khác gì khẳng định trách nhiệm nuôi dạy con cái vẫn thuộc về người mẹ và việc kế
hoạch hóa gia đình trước hết vẫn là trách nhiệm của người phụ nữ. Tuy nhiên, cần
đưa ra những quy định không phù hợp và loại bỏ định kiến giới trực tiếp từ các văn
bản quy phạm pháp luật. Lồng ghép công tác bình đẳng vào nhiệm vụ chính trị của
cơ quan, đơn vị và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Xử lý
nghiêm các hành vi phân biệt đối xử và xúc phạm giới tính để răn đe xã hội. Phải
tuyên truyền rộng rãi những vụ án này bằng một số hình thức như: tổ chức các phiên
tòa lưu động; tuyên truyền miệng ở khu dân cư, khu dân cư; lồng ghép với các chương
trình phát thanh, truyền hình của địa phương nhằm tạo hiệu ứng phản chiếu tốt nhất
có thể cảnh báo, răn đe để người dân biết, không vi phạm.
- Tích cực giảm thiểu khoảng cách giới tại nơi làm việc. Mặc dù pháp luật có nhữngquy
định đặc biệt nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới nhưng trên thực tế cần đảm bảo cơ lOMoARcPSD| 36443508
chế để thực hiện những quy định này trên thực tế. Cần nâng cao nhận thức của người
lao động và người sử dụng lao động về lợi ích kinh tế, xã hội của bình đẳng giới và
hơn hết là thay đổi cách nghĩ của người sử dụng lao động để xóa bỏ định kiến, rào cản
nhằm đạt được bình đẳng giới cho cả nam và nữ. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phải có cơ chế kiểm soát bố trí công việc trong việc thực hiện chế độ
thai sản, cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em và xã hội hóa để tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho cả lao động nam và nữ; bảo đảm cơ hội bình đẳng cho nam và nữ trong việc
nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng;
trong lương hay thậm chí là trong thi đua, khen thưởng…11
- Chú trọng noi gương người tốt thực hiện bình đẳng giới Các địa phương triển khaicác
mô hình tuyên truyền bình đẳng như “Câu lạc bộ bình đẳng giới”, tổ công tác “tư vấn,
hỗ trợ bạo lực tình dục”, xây dựng “Mái ấm” hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực. Thực hành
tình dục đã có hiệu quả trong thực tế. Tùy theo điều kiện từng địa phương mà duy trì
và phổ biến các mô hình này.
- Tăng cường trách nhiệm quản lý của chính quyền địa phương, vai trò tham gia,
phốihợp của các sở, ban, ngành, ban, ngành của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội trong việc nâng cao nhận thức, thực hiện và hoàn thiện thể chế bình
đẳng giới. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của người quản lý trong việc thực hiện các
quy định về bình đẳng và thăng tiến phụ nữ.
- Thực hiện đúng cơ chế, chính sách bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng giớitrong
lĩnh vực mình phụ trách. Lồng ghép nội dung bình đẳng giới trong xây dựng chính
sách, chương trình, kế hoạch, dự án, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh; tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp.
- Chúng ta sẽ tiếp tục triển khai Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn
2021-2030, Chương trình Phòng ngừa và Ứng phó với Bạo lực Tình dục giai đoạn 2021-
2025 và Chương trình Truyền thông về Bình đẳng đến năm 2030, trong đó tập trung
vào các mục tiêu và mục tiêu của Chiến lược Bình đẳng. chương trình công bằng và các
hoạt động Vì sự tiến bộ của phụ nữ.
11 Trương Thị Điệp, “Bình đẳng giới ở Việt Nam, thành tựu và thách thức trong giai đoạn hiện nay”,
http://laodongxahoi.net/binh-dang-gioi-o-viet-nam-thanh-tuu-va-thach-thuc-trong-giai-doan-hien-
nay1310941.html#_ftn1, ngày truy cập 22/10/2018 lOMoARcPSD| 36443508
- Tổ chức tổng kết 15 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới, đánh giá kết quả, lợi ích,khó
khăn, vướng mắc của quá trình thực hiện; gợi ý những nội dung cần chỉnh sửa, hoàn
thiện để quá trình áp dụng được hoàn thiện và đảm bảo tính khả thi.
- Nâng cao năng lực về bình đẳng giới, hiệu quả quản lý nhà nước và công tác vì sựtiến bộ của phụ nữ:
+ Tiếp tục giữ vững nhiệm vụ, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong
chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác bình đẳng và Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái,
trong đó chú trọng phối hợp liên ngành giữa các cơ quan hành chính nhà nước và cơ
quan hành chính nhà nước, thực hiện và kiểm soát, nghiên cứu các lĩnh vực chính trị -
xã hội. tổ chức giám sát việc thực hiện chính sách bình đẳng.
+ Tổ chức khảo sát, điều tra công tác cán bộ nữ trên địa bàn toàn tỉnh.
+ Tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo chuyên đề về kỹ năng lồng ghép giới trong xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chương trình, dự án... cho cán bộ phụ
trách công tác pháp chế và xây dựng chính sách, pháp luật; kỹ năng viết bài, thu thập
thông tin đảm bảo yếu tố bình đẳng giới cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên thuộc
các cơ quan thông tin báo chí trên địa bàn tỉnh; nâng cao kiến thức, kỹ năng về công tác
bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới; đào tạo
kỹ năng truyền thông, tư vấn tâm lý, trợ giúp pháp lý, kết nối dịch vụ và kỹ năng làm
việc với người có hành vi gây bạo lực giới; nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ,
tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận
với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; xây dựng người phụ nữ Nghệ An đáp
ứng yêu cầu thời đại mới.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về bình đẳng giới thuộc phạm
vi, lĩnh vực, địa bàn quản lý; kịp thời xác minh, báo cáo những vấn đề, vụ việc đột xuất
liên quan đến công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ cho cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, ủy ban nhân dân các cấp để phối hợp giải quyết. + Củng cố bộ máy,
kiện toàn, phát huy hệ thống tổ chức, mạng lưới cán bộ, cộng tác viên bình đẳng giới
và Vì sự tiến bộ của phụ nữ. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức liên ngành
về bình đẳng giới, bảo vệ phụ nữ và nâng cao chất lượng hoạt động (phụ nữ và ban bảo
vệ phụ nữ các cấp). xây dựng chương trình, kế hoạch liên ngành để thực hiện nhiệm vụ
bình đẳng và bảo vệ phụ nữ. lOMoARcPSD| 36443508
+ Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực hợp pháp của các tổ chức, tổ chức, cá
nhân trong nước và quốc tế nhằm nâng cao tính bền vững, hiệu quả của bình đẳng giới
và hướng tới thúc đẩy bình đẳng giới.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.
+ Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông về các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước về bình đẳng giới; vì sự tiến bộ của phụ nữ và phòng ngừa, ứng phó với
bạo lực trên cơ sở giới; các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2021-2030, Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới
giai đoạn 2021-2025 và Chương trình truyền thông về bình đẳng giới đến năm 2030;
bám sát các nhiệm vụ, giải pháp; quan tâm, bố trí nguồn lực để triển khai nhằm đạt được
các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.
+ Đề cao vai trò của nam giới và phụ nữ trong gia đình và xã hội. Khuyên khích sự tham
gia của nam giới trong các hoạt động bình đẳng giới, phòng ngừa, ứng phó với bạo lực
trên cơ sở giới và hoạt động Vì sự tiến bộ của phụ nữ .
+ Xây dựng, phát hành các sản phẩm truyền thông, phổ biến chính sách, pháp luật về
bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, phòng ngừa và ứng phó với bạo
lực trên cơ sở giới trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và hệ thống
thông tin cơ sở; tăng cường ứng dụng, khai thác lợi thế của công nghệ thông tin và các
loại hình truyền thông trên nền tảng số; khuyến khích phát triển, xuất bản các sản phẩm
truyền thông bằng tiếng dân tộc thiểu số, phù hợp với từng địa bàn, đối tượng cụ thể.
+ Tăng cường và đa dạng hóa các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức, chuyển
đổi hành vi về bình đẳng giới trong các tầng lớp nhân dân, quan tâm đến việc tiếp cận
của các nhóm người yếu thế, người khuyết tật; tăng cường tuyên truyền, giới thiệu về
các mô hình, dịch vụ hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới tại địa phương; nhân rộng những
điển hình tốt, người có uy tín, ảnh hưởng tích cực tại cộng đồng và thu hút sự tham gia
của nam giới, trẻ em trai trong thực hiện bình đẳng giới; tích cực đấu tranh, phản bác
những thông tin sai lệch về bình đẳng giới của Việt Nam.
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng
phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2022 hiệu quả, sáng tạo, thích ứng với điều kiện, tình hình cụ thể. lOMoARcPSD| 36443508
+ Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, đa dạng hóa các loại hình, sản phẩm trong công
tác truyền thông về bình đẳng giới; phòng ngừa ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới và
hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
+ Tăng cường kiểm tra về công tác bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
+ Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh xây dựng kế hoạch và tổ chức các đoàn kiểm tra
công tác bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ tại địa phương, đơn vị.
Tập trung lựa chọn các đơn vị, địa phương có nhiều vấn đề nổi cộm đối với phụ nữ và
trẻ em gái; nơi có tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy, lãnh đạo, quản lý thấp, có các mục tiêu, chỉ
tiêu về bình đẳng giới chưa đạt hoặc có nguy cơ cao về bất bình đẳng giới.
+ Các sở, ban ngành cấp tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, thị xã có trách
nhiệm tự kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện Kế hoạch trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.12
Như vậy, có thể thấy rằng bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước
dành sự ưu tiên đặc biệt. Và những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳng về giới đã
mang lại nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá rất cao. Tuy
nhiên, bên cạnh kết quả đạt được rõ ràng, không thể phủ nhận vẫn còn những tồn tại,
hạn chế. Nhưng cần khẳng định một lần nữa: Bình đẳng giới, bình đẳng các dân tộc trở
thành mục tiêu phát triển của Việt Nam nói riêng, của cộng đồng quốc tế nói chung; và
để đạt được mục tiêu này không phải một sớm một chiều mà là cả một quá trình lâu dài
và cần sự vào cuộc của chính quyền, sự tham gia của toàn dân.
3.2. Giải pháp cá nhân.
Trong xã hội hiện đại, vấn đề bình đẳng giới vẫn là một trong những vấn đề còn
dang dở và đòi hỏi sự chú ý và giải quyết từ cả cộng đồng. Tuy nhiên, các giải pháp về
bình đẳng giới không thể chỉ được thực hiện bởi chính phủ mà còn phụ thuộc vào sự
thay đổi tư duy, nhận thức của mỗi cá nhân trong xã hội. Dưới đây là một số giải pháp
của cá nhân để nâng cao sự bình đẳng giới trong xã hội:
12 Ban dân vận tỉnh ủy Nghệ An, “Nhiệm vụ giải pháp tiếp tục thực hiện công tác bình đẳng giới và hoạt động vì
sự tiến bộ phụ nữ”, https://nghean.dcs.vn/vi-vn/tin/nhiem-vu-giai-phap-tiep-tuc-thuc-hien-cong-tac-binh-d
%E1%BA%B3ng-gioi-va-hoat-dong-vi-su-tien-bo-phu-nu/783534-897415-148833, ngày truy cập 06/04/2022. lOMoARcPSD| 36443508 -
Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới: Chúng ta cần có sự hiểu biết rõ ràng về
vấnđề bình đẳng giới, phải biết rõ ràng về tầm quan trọng của nó đối với xã hội và sự
phát triển của con người. Chúng ta cần nhận ra rằng bình đẳng giới là một giá trị cốt lõi
trong một xã hội dân chủ và công bằng. -
Phát triển kỹ năng giao tiếp và tôn trọng giới tính: Mỗi cá nhân cần phải trang bị
chomình kỹ năng giao tiếp và tôn trọng giới tính trong giao tiếp, từ đó tránh những hành
vi kỳ thị, phân biệt giới tính hoặc bạo lực với giới tính. -
Tránh lăng mạ và chê bai với những người khác giới: Chúng ta cần tránh lăng
mạ vàchê bai những người khác giới, đó là một trong những hành vi có hại nhất đối với
tình hình bình đẳng giới. Bởi vì lăng mạ và chê bai không chỉ khiến người bị phân biệt
đối xử mà còn gây ra sự đau khổ tinh thần và cảm giác thiếu tự tin. -
Không giới hạn bản thân về các lựa chọn: Chúng ta cần phải giải phóng bản
thânkhỏi các giới hạn xã hội, bao gồm cả giới hạn về giới tính. Chúng ta cần phải tin
tưởng vào bản thân, đặt mục tiêu và khám phá những thứ mà chúng ta yêu thích, không
để giới tính làm trở ngại. -
Chia sẻ thông tin và tuyên truyền về bình đẳng giới: Cá nhân có thể sử dụng
cácphương tiện truyền thông xã hội hoặc đóng góp cho các tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực giới để chia sẻ thông tin và tuyên truyền về bình đẳng giới. Các thông tin này có
thể liên quan đến các chính sách pháp luật mới nhất, những vụ việc liên quan đến giới
hay các bài viết nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề này. Bên cạnh đó,
chia sẻ kinh nghiệm và những phương pháp hiệu quả để thúc đẩy bình đẳng giới cũng
là một cách để tạo động lực cho những người khác tham gia vào các hoạt động này. -
Đòi hỏi các đại sứ, chính trị gia hành động vì bình đẳng giới: Các đại sứ, chính trị gia
đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chính sách và tạo ra môi trường thân thiện
cho việc phát triển bình đẳng giới. Do đó, cá nhân có thể tham gia các chiến dịch, ký
tên các đơn thư hoặc gửi thư đến các đại sứ, chính trị gia để yêu cầu họ hành động và
đóng góp cho một xã hội bình đẳng giới hơn. -
Tự hoàn thiện bản thân và học hỏi thêm về bình đẳng giới: Mỗi cá nhân cần
thườngxuyên tự đánh giá và hoàn thiện bản thân về ý thức về bình đẳng giới. Việc tìm
hiểu về các chính sách pháp luật, các cuộc đấu tranh của phụ nữ và cộng đồng LGBT+
cũng như tham gia vào các cuộc thảo luận, hội thảo, khóa đào tạo về bình đẳng giới sẽ lOMoARcPSD| 36443508
giúp cá nhân nắm bắt thêm kiến thức và cải thiện kỹ năng để đóng góp cho sự phát triển
bình đẳng giới trong xã hội.
Tóm lại, sự bình đẳng giới là một trong những mục tiêu quan trọng của mỗi xã
hội. Để đạt được mục tiêu này, không chỉ riêng các chính trị gia, nhà lãnh đạo xã hội
mà mỗi cá nhân đều cần phải đóng góp và thực hiện các giải pháp để nâng cao bình
đẳng giới. Chỉ khi tất cả mọi người trong xã hội nhận thức được tầm quan trọng của
bình đẳng giới và hành động tương ứng, chúng ta mới có thể đạt được sự thay đổi và tiến bộ. KẾT LUẬN
Tổng kết lại, vấn đề bình đẳng giới là một vấn đề quan trọng trong xã hội hiện
nay. Chúng ta cần nhìn nhận và thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo bình đẳng giới
trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần chấp nhận sự
khác biệt về giới tính và đối xử với nhau trên cơ sở tôn trọng và công bằng.
Với những giải pháp cụ thể đã đề ra, mỗi cá nhân cần nhận thức và thực hiện
chúng trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta cần phải tự học hỏi, trau dồi kiến thức và
nhận thức về bình đẳng giới để có thể thực hiện và truyền bá đến người khác. Đồng
thời, cần xây dựng thái độ tôn trọng, không phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính, thể
hiện sự bình đẳng giới trong mọi hoạt động, từ trong gia đình, cơ quan, trường học cho
đến cộng đồng xung quanh.
Tuy nhiên, việc thực hiện bình đẳng giới không phải là một quá trình đơn giản
và nhanh chóng. Đây là một quá trình kéo dài, đòi hỏi sự nhạy cảm, ý thức cao về bình
đẳng giới và sự cam kết bền vững. Chúng ta cần thay đổi thái độ, suy nghĩ, hành động
để từ đó góp phần xây dựng một xã hội công bằng và bình đẳng giới.
Với mong muốn đó, mỗi cá nhân cần nhận thức được tầm quan trọng của việc
thực hiện bình đẳng giới, đồng thời đóng góp tích cực vào công cuộc này thông qua các
hành động, chương trình học tập, tuyên truyền. Bằng cách đó, chúng ta có thể đạt được
một xã hội bình đẳng giới, nơi mà phụ nữ và nam giới được coi trọng, đánh giá dựa trên
năng lực, đóng góp và thành tựu của mỗi cá nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO SÁCH: lOMoARcPSD| 36443508
1. Kenneth Cauthen (1987), The Passion for Equality, NXB Rowman & Littlefield,tr.8.
2. Steven Goldberg (1973), The Inevitability of Patriarchy, NXB William Morrow andCompany, tr.133.
3. Jean-Jacques Rousseau (1753), Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng.
TÀI NGUYÊN TRỰC TUYẾN: 1.
HaNoi1000, “Bất bình đẳng xã hội là gì? Nguyên nhân, Các quan
điểm”,https://hanoi1000.vn/bat-binh-dang-xa-hoi-la-gi-nguyen-nhan-cac-quan-diem, ngày truy cập 11/03/2022. 2.
Tạp chí tổ chức Nhà nước, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và sự
vậndụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_s
u_van_dung_cua_Dang_Cong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016. 3.
Nguyễn Văn Phái, “Tỷ số giới tính khi sinh bất bình thường của Việt Nam và
nhữnghậu quả có thể xảy ra”, https://kinhtedothi.vn/ty-so-gioi-tinh-khi-sinh-bat-
binhthuong-cua-viet-nam-va-nhung-hau-qua-co-the-xay-ra.html, ngày truy cập 09/09/2021. 4.
“Diễn biến bình đẳng giới trong giáo dục những năm vừa
qua”,http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?newid=21121, ngày truy cập 26/12/2018. 5.
Hà Lê, “Việt Nam giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính
trị”,https://vneconomy.vn/viet-nam-giam-dan-khoang-cach-gioi-trong-linh-vuc-
chinhtri.htm, ngày truy cập 19/10/2022. 6.
Vũ Hồng, ”Cần đẩy mạnh bình đẳng giới góp phần thúc đẩy tiến bộ xã
hội”,http://hoinongdan.org.vn/sitepages/news/1145/86890/can-day-manh-binh-dang-
gioigop-phan-thuc-day-tien-bo-xa-hoi, ngày truy cập 27/06/2019. 7.
Trương Thị Điệp, “Bình đẳng giới ở Việt Nam, thành tựu và thách thức trong
giaiđoạn hiện nay”, http://laodongxahoi.net/binh-dang-gioi-o-viet-nam-thanh-tuu-
vathach-thuc-trong-giai-doan-hien-nay-1310941.html#_ftn1, ngày truy cập 22/10/2018. 8.
Ban dân vận tỉnh ủy Nghệ An, “Nhiệm vụ giải pháp tiếp tục thực hiện công tác
bìnhđẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ phụ nữ”, https://nghean.dcs.vn/vi- lOMoARcPSD| 36443508
vn/tin/nhiemvu-giai-phap-tiep-tuc-thuc-hien-cong-tac-binh-d%E1%BA%B3ng-gioi-
va-hoat-dongvi-su-tien-bo-phu-nu/783534-897415-148833, ngày truy cập 06/04/2022.