Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong vùng dân tộc thiểu số ở việt nam hiện nay – thực trạng và giải pháp | Tiểu luận môn Kinh tế học đại cương
Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc có đặc điểm tiềm năng kinh tế, bản sắc văn hoá, ngôn ngữ riêng.Các DTTS ở nước ta hầu hết cư trú và sinh sống ở vùng miền núi, một số ít ở đồng bằng, trải rộng trên 3/4 diện tích cả nước. Theo nghiên cứu gần đây của Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dân tộc, toàn quốc có 171,817 địa bàn (địa bàn vùng DTTS được định nghĩa là địa bàn có số lượng người DTTS đang sinh sống chiếm từ 30% trở lên so với tổng dân số của địa bàn đó). Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế học đại cương ( GEFC220105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRONG VÙNG DÂN TỘC THIỂU
SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP A. PHẦN MỞ ĐẦU LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc có đặc điểm tiềm năng kinh tế,
bản sắc văn hoá, ngôn ngữ riêng.Các DTTS ở nước ta hầu hết cư trú và sinh sống ở vùng
miền núi, một số ít ở đồng bằng, trải rộng trên 3/4 diện tích cả nước. Theo nghiên cứu
gần đây của Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dân tộc, toàn quốc có 171,817 địa bàn (địa
bàn vùng DTTS được định nghĩa là địa bàn có số lượng người DTTS đang sinh sống
chiếm từ 30% trở lên so với tổng dân số của địa bàn đó)trong đó địa bàn vùng dân tộc là
30,945 với 3,389 địa bàn thuộc đô thị và 27,556 địa bàn nông thôn. Số người DTTS ở 63
tỉnh ước tính khoảng 13,386,330 người, số người DTTS đã gia tăng đáng kể giai đoạn
2009- 2015 với mức gia tăng bình quân 1.55%/năm. Số người DTTS hiện sống trong
3,040hộ, số hộ gia đình cũng tăng khoảng 1,6%/năm, với quy mô dân số như vậy, hiện số
người DTTS sống ở các khu vực đô thị chiếm khoảng 10,4%. Việc xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay là một việc hết sức cần
thiết, vừa để nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật và chính trí và để phát triển
kinh tế ở các vùng sinnh sống của dân tộc thiểu số. Vì vậy nhóm chúng em xin chọn đề
tài: “ Xây dựng hệ thống trính trị cơ sở trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay
– Thực trạng và giải pháp. Dựa vào những gì đã học ở trên lớp và những gì bọn em tham
khảo ở trên mạng internet, em mong những kiến thức này sẽ góp một phần không nhỏ để
cho thầy và các bạn có thể hiểu thêm về đề tài của chúng em. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu thực trạng việc xây hệ thống chính trị cơ sở trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó rút ra những giải pháp cho việc xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong
vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiểu luận tập trung vào những phương pháp:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp lý thuyết.
- Phương pháp quan sát khoa học
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Kết cấu của đề tài gồm: A. Phần mở đầu B. Phần nội dụng
Chương 1: Thực trạng việc xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Một số quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng
dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay. C. Kết luận B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: THỰC TRẠNG VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
TRONG VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. MỤC TIÊU XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỞ SỞ TRONG VÙNG
DÂN TỘC THIỂU SỐ CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
1.1.1. Chăm lo cho sự nghiệp phát triển kinh tế, giáo dục
Nước ta có 54 dân tộc, trong đó có 53 DTTS, với 14,123 triệu người, chiếm 14,7% dân số
cả nước. Quy mô dân số không đồng đều, có 06 dân tộc trên 01 triệu người, 14 dân tộc
dưới 10.000 người, trong đó có 05 dân tộc dưới 1.000 người (Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu
Péo và Si La). Hầu hết các DTTS sinh sống ở miền núi cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa
và tập trung chủ yếu ở một số tỉnh khu vực miền Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung bộ và
Duyên hải miền Trung, Tây Nam bộ. Cùng với việc hoạch định chính sách chung cho cả
nước, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm xây dựng chính sách cho vùng DTTS và
miền núi, luôn xác định công tác dân tộc, đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta luôn nhất quán chủ trương đẩy nhanh phát triển về mọi mặt đối với vùng DTTS
và miền núi, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển so với mặt bằng chung của cả
nước, tạo điều kiện thuận lợi cho 1.673 xã khu vực I, 210 xã khu vực II và 1.551 xã khu
vực III, với 3.434 xã, phường, thị trấn thuộc vùng DTTS và miền núi; nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, để từng bước nâng cao đời sống phát triển về kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Vì vậy, ngày 21/02/2019, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 219/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Hỗ trợ thông tin
tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo, với mục đích đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về dân
tộc và truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa dân tộc, các quan điểm đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, những giá trị của tôn
giáo đối với đời sống xã hội, góp phần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thực hiện Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về phê duyệt chủ
trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, ngày 14/10/2021 Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương mục tiêu quốc gia phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển
kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách
về mức sống, thu nhập bình quân của vùng so với bình quân chung của cả nước; giảm
dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn; quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư, xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển;
phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện rõ rệt đời sống của Nhân
dân; nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động
là người dân tộc thiểu số; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu
số đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết
những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở
vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới
quốc gia; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng
bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.
Phạm vi của Chương trình: Trên địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi; trong đó, ưu tiên nguồn lực của Chương trình đầu tư cho các địa bàn đặc biệt
khó khăn (xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn), xã an toàn khu (ATK) thuộc
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Đối tượng của Chương trình bao gồm: Xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi; Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc
Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; Doanh
nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (HTX), các tổ chức kinh tế hoạt động ở địa bàn
các xã, thôn đặc biệt khó khăn.
1.1.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch vững mạnh
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) Việt Nam xã hội chủ nghĩa
(XHCN) đòi hỏi phải có nguồn nhân lực trình độ cao mới đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh tốc
độ phát triển kinh tế - xã hội, gắn với nâng cao toàn diện chất lượng và hiệu quả công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng
chỉ rõ: "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn..."1 được coi là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước. "Thực hiện tốt ”Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là: "Phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị -
xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ
vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững
chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau". Mục tiêu đó đòi hỏi các tổ chức đảng và
toàn Đảng một năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu mới, trong đó vấn đề then chốt là xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh.
Đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội XI đề ra đang được toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện trong điều kiện vừa có thời cơ, vận hội lớn, vừa phải
đối mặt với những nguy cơ, thách thức không nhỏ. Thắng lợi của 25 năm đổi mới xây
dựng và BVTQ tùy thuộc vào việc Đảng nắm bắt cơ hội, tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy
cơ, vượt qua thách thức, đó là trách nhiệm nặng nề của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đảng mạnh là nhờ sự vững mạnh của các tổ chức đảng, sự trong sạch, vững mạnh của đội
ngũ cán bộ, đảng viên và mối liên hệ mật thiết thường xuyên của Đảng với nhân dân.
Song, suy cho cùng toàn bộ sức mạnh của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng phụ thuộc vào sự trong sạch, vững mạnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng ta
coi xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của từng
thời kỳ cách mạng là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu. Trong điều kiện hiện
nay, vấn đề đó càng trở nên quan trọng, đòi hỏi phải được giải quyết một cách khẩn
trương, nhưng cũng là nhiệm vụ căn bản, lâu dài.
Trong 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, nhất là từ Đại hội VIII đến nay,
Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặc biệt coi trọng nhiệm vụ này và đề
ra Nghị quyết về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Các cấp ủy
đảng đã cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết đó và thu được những kết quả bước
đầu. Nhờ đó, mặc dù mỗi cán bộ, đảng viên sống và hoạt động trong hoàn cảnh có nhiều
đặc điểm mới so với những năm trước đó, trước thời cơ và thách thức quyết liệt, đội ngũ
cán bộ, đảng viên vẫn từng bước trưởng thành. Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên vững
vàng trước những biến động trong nước và thế giới, kiên định mục tiêu và con đường đi
lên CNXH do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, hăng hái đi đầu trong công cuộc
đổi mới, hoàn thành các nhiệm vụ được giao; giữ vững phẩm chất, đạo đức cách mạng
trong sáng, lối sống trong sạch, lành mạnh. Nhiều cán bộ, đảng viên hoạt động trong các
môi trường phức tạp, điều kiện khó khăn đã năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trước dân, trước Đảng, mạnh dạn tìm tòi thử nghiệm nhiều cách
làm mới, đạt hiệu quả cao, được quần chúng tin yêu, ca ngợi, góp phần nâng cao uy tín,
vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên có ý thức
tổ chức kỷ luật cao, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà
nước, những quy định của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh nêu trên, vẫn có không ít cán bộ đảng viên còn yếu
kém. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống
ở một bộ phận cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Không ít cán bộ, đảng viên yếu kém
về trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ; tụt hậu về trí tuệ, năng lực tư duy, năng lực
tổ chức và hoạt động thực tiễn trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng. Tình trạng
tuổi bình quân của cán bộ ngày một cao, lực lượng kế cận hụt hẫng đã xảy ra ở nhiều nơi.
Sự không thống nhất giữa lời nói và việc làm đã xuất hiện trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên là vấn đề đáng lo ngại. Trong khi phần lớn cán bộ, đảng viên gặp nhiều khó
khăn trong cuộc sống thì một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, bằng con đường phi
pháp giàu lên nhanh chóng, gây nên sự bất bình chính đáng trong quần chúng, đồng thời
tạo ra kẽ hở để các thế lực thù địch cơ hội lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc kích động chống phá Đảng...
Để phát huy ưu điểm, khắc phục những yếu kém nêu trên, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu xây dựng và BVTQ trong tình hình mới, mà
trước hết là thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, cần tập trung vào một
số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành
mạnh, chống chủ nghĩa cá nhân.
Trên thực tế, không ít trường hợp từ những biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối
sống, dẫn tới suy thoái về chính trị, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, thanh danh, sức
chiến đấu của Đảng và kết quả thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Vì thế, ngăn chặn và loại trừ tình trạng đó trở thành một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Mỗi cán bộ đảng viên cần thấy rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế,
chủ nghĩa cá nhân sẽ có nhiều điều kiện để phát triển, lối sống tư sản sẽ có nhiều cơ hội
để thâm nhập vào nước ta, tác động mạnh vào đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những người
bản lĩnh chính trị kém, không chịu tu dưỡng rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng dễ
bị sa ngã. Hơn nữa, một trong những nội dung chống phá quyết liệt nhất của các thế lực
thù địch đối với Đảng và cách mạng nước ta là thông qua sự tha hóa về phẩm chất đạo
đức, lối sống của từng cán bộ, đảng viên để làm lu mờ bản chất giai cấp công nhân, tính
cách mạng của Đảng. Tình trạng "chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi,
chạy bằng cấp",... chưa được khắc phục... "Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có những diễn biến phức tạp" ngay 4
từ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì thế, việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng,
lối sống trong sạch, lành mạnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là vấn đề thực sự
cấp bách. Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh, dù ở cương vị công tác nào cũng không được bằng
lòng với chính mình về trình độ hiểu biết, đạo đức và phong cách công tác.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"5. Đảng viên là cán bộ lãnh đạo
chủ chốt càng phải gương mẫu, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống. Mọi nơi,
mọi lúc, nhất là trước những cám dỗ vật chất phải tự đấu tranh với chính mình, thực hiện
đạo đức "cần, kiệm, liêm, chính", không sa ngã, tích cực đấu tranh chống lại những biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, cần phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức
đảng và các đoàn thể quần chúng trong rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, lối sống
trong sạch, lành mạnh của cán bộ, đảng viên; hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật
xử lý kịp thời và nghiêm minh những cán bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống.
Hai là, đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cả
về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý
nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành
nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi
phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân. Tổng kết việc thực hiện "nhất thể hóa" một số
chức vụ lãnh đạo... theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định .6
Ngày nay khoa học, công nghệ phát triển như vũ bão, kinh tế tri thức phát triển, toàn cầu
hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ. Nếu cán bộ, đảng viên không được bồi dưỡng, không có
kiến thức, trình độ học vấn nhất định về lý luận chính trị, khoa học - kỹ thuật, quản lý
kinh tế, xã hội, pháp luật... thì không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thậm chí
còn phạm những sai lầm, khuyết điểm.
Muốn vậy, cần tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, đồng thời đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán
bộ, đảng viên trong hệ thống các trường chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Đào tạo, bồi
dưỡng phải gắn với quy hoạch, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ; kịp thời chấn chỉnh
việc đào tạo tràn lan, trùng lắp, không theo quy hoạch, chất lượng thấp gây lãng phí ngân
sách và thời gian. Cần tiến hành rà soát, đánh giá lại chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Tặng cường và nâng cao
chất lượng các lớp bồi dưỡng theo các chuyên đề thích hợp thiết thực đối với cán bộ,
đảng viên. Chú trọng đào tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, phẩm chất
đạo đức tốt. Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị cần được quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng
riêng cho hệ thống các trường chính trị của Đảng và hệ thống các trường đại học, cao
đẳng trong cả nước; gắn đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị với nghiên cứu thực tiễn.
Các cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn của các bộ, ngành, đoàn thể có trách nhiệm và kế
hoạch tổ chức quản lý và kiểm tra chế độ học tập của can bộ, đảng viên.
Ba là, đổi mới việc nhận xét đánh giá cán bộ, phân loại đảng viên, thực hiện nghiêm
chỉnh chủ trương luân chuyển cán bộ.
Nhận xét, đánh giá cán bộ, phân loại đảng viên đúng đắn có tác dụng to lớn đối với việc
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ đảng viên. Việc nhận xét, đánh
giá cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, vào kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao
và sự tín nhiệm của cán bộ. Nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người
đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan đơn vị cần căn cứ vào sự vững
vàng về chính trị, vào công việc được đảm nhiệm, vào sự đúng đắn của những quyết
định, vào sự quy tụ cán bộ cấp dưới và uy tín trong quần chúng, căn cứ vào đạo đức, lối
sống của bản thân và gia đình cán bộ...
Trong giai đoạn hiện nay, để đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên đúng và chính xác, đòi
hỏi Đảng phải bổ sung, hoàn thiện hệ thống các căn cứ, tiêu chí. Khắc phục cách đánh
giá, phân loại đảng viên chung chung, hình thức, không sát với sự phấn đấu rèn luyện của
đảng viên, vừa không xây dựng được kế hoạch cụ thể, sát hợp trong xây dựng và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa không động viên được đảng viên phấn đấu
vươn lên. Đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên cần căn cứ vào đặc thù lĩnh vực công tác
của cán bộ, đảng viên và đặc thù của từng vùng, từng miền, từng khu vực trong cả nước.
Ngoài các tiêu chí chung, trên cơ sở những đặc thù đó mà xác định tiêu chí nào cần nhấn
mạnh cho sát hợp với từng tổ chức cơ sở đảng. Đồng thời, cần xác định một số tiêu chí
riêng cho những cán bộ, đảng viên làm nhiệm vụ đặc biệt. Kết hợp chặt chẽ việc đánh
giá, phân loại cán bộ, đảng viên với nhận xét, đánh giá cán bộ. Cần đổi mới và tăng
cường công tác quản lý cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp.
Thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đổi mới tư duy,
cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Tiếp tục thực
hiện: "Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý giữa các vùng, các ngành, các cấp" là
khâu rất quan trọng trong công tác tổ chức cán bộ. Chúng ta đã có quyết tâm thực hiện
chiến lược luân chuyển cán bộ, nhiều tỉnh (thành) ủy đã thực hiện tốt, tạo ra những
chuyển biến tích cực trong đội ngũ cán bộ, công chức. Tuy nhiên, việc luân chuyển cán
bộ trong thời gian qua nhìn chung còn nhiều yếu kém, ảnh hưởng đến các mặt hoạt động
khác của công tác cán bộ, đến chất lượng đội ngũ cán bộ và chất lượng lãnh đạo công cuộc đổi mới.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, vấn đề quan
trọng là chọn được "đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên" làm chuyển biến toàn bộ công
tác cán bộ của Đảng. Bộ Chính trị đã thảo luận và nhất trí cao với việc ban hành Nghị
quyết của Bộ Chính tri về công tác luân chuyển cán bộ các cấp, các ngành, các đoàn thể
và trong lực lượng vũ trang. Luân chuyển cán bộ hiện nay được xác định là một giải pháp
tích cực, một trong những khâu đột phá, có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ công tác cán
bộ, như đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ... nhằm đào tạo
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ trong diện
quy hoạch được rèn luyện, thử thách và trưởng thành. Khắc phục tình trạng trì trệ khép
kín, cục bộ kéo dài, quan liêu, xa thực tế, xa cơ sở, xa dân của một bộ phận cán bộ, nhất
là cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao.
Bốn là, tăng cường nguồn lực có chất lượng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để có nguồn lực chất lượng tăng cường cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai đoạn
cách mạng mới, cần tập trung thực hiện tốt những nội dung, như đổi mới, nâng cao chất
lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân (Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn
các cấp); đặc biệt chú trọng xây dựng, củng cố các đoàn thể nhân dân ở cơ sở thực sự trở
thành nơi thu hút thanh niên, đoàn viên, hội viên tham gia phong trào lao động, học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đổi mới hình thức tuyên truyền, nêu
gương những cán bộ, đảng viên tốt để quần chúng học tập, noi theo, qua đó hướng dẫn,
động viên họ phấn đấu trở thành đảng viên. Các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ
quan tuyên truyền của Đảng và các đoàn thể cần coi trọng việc tuyên truyền về Đảng và
cán bộ, đảng viên tiên phong gương mẫu được quần chúng tin yêu. Phát động, tổ chức và
duy trì tốt các phong trào thi đua yêu nước trong toàn Đảng và toàn dân để phát hiện và
lựa chọn những quần chúng ưu tú kết nạp vào Đảng, bổ sung cho đội ngũ cán bộ của Đảng.
Trong tình hình hiện nay, các cấp ủy cần xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính
sách phát hiện, tuyển chọn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng người có đức, có tài.
Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên
cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín
nhiệm của quần chúng, nhân dân làm cơ sở để đề bạt, bổ nhiệm chứ không nên vì cơ cấu.
Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức đủ tài, cơ hội chủ nghĩa. Nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt
công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý xây dựng, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ
cấp chiến lược. Vấn đề quyết định là phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, củng cố và tăng cường thực hiện quy chế dân chủ, nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng về công tác cán bộ. Xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững vàng,
kiên định về chính trị, có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, với cả những mặt tích cực và tiêu cực. Đây là thử thách mới, quyết
liệt đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đội ngũ này phải được đào tạo, bồi
dưỡng một cách cơ bản, trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục, nâng cao bản lĩnh chinh trị,
trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng; đồng thời cần tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên về chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
1.1.3. Giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số
Đảng ta khẳng định: văn hóa là một trụ cột của phát triển bền vững. Văn hóa không chỉ
có chức năng nhận thức, giáo dục, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người mà còn là
nguồn lực nội sinh, nhân tố động lực góp phần phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước. Thực tiễn bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu
số trong sự thay đổi, tiếp biến văn hóa hiện nay có thể khái quát trên một số vấn đề sau:
Thứ nhất, Nhà nước và các địa phương đã có chính sách xây dựng, quy hoạch các làng,
bản, xóm mới theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội gắn với xây dựng đời sống văn hóa
mới, nhằm gìn giữ môi trường văn hóa và các thiết chế văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Các làng, bản được xây dựng theo mô hình nông thôn mới với sự quản lý hệ thống chính
trị ở cơ sở. Đời sống của người dân ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi có điều kiện
bắt nhịp với sự phát triển chung của đất nước; tạo cơ sở để việc bảo tồn, phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được tốt hơn.
Tuy nhiên, việc quy hoạch, xây dựng mới địa bàn dân cư đã làm thay đổi, phá vỡ không
gian truyền thống, làm thay đổi, đứt gãy không gian văn hóa cộng đồng dân tộc với lịch
sử hình thành, phát triển lâu đời. Sự thay đổi đó đã phá vỡ các mối quan hệ làng bản, tính
cố kết cộng đồng, dòng họ và làm cho các phong tục, tập quán của đồng bào dần dần bị
thay đổi, dẫn đến sự biến mất hay biến dạng. Giá trị văn hóa truyền thống vì thế cũng dần mai một.
Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, đời
sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi có nhiều khởi sắc, vượt qua không gian vùng
miền để mở cửa hội nhập, qua đó, tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số lan tỏa những giá trị tốt
đẹp vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ quốc gia, góp phần khẳng định sức sống, bản sắc, giá trị của văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, trước tác động của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại, sự xâm thực văn hóa,
xâm nhập và biến đổi tôn giáo - tín ngưỡng diễn ra ngày càng mạnh mẽ, bản sắc văn hóa
của một số dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng hóa. Cách tổ chức quản lý
làng, bản truyền thống gắn với các cộng đồng không gian văn hóa bị phá vỡ, không gian
văn hóa bị tác động, xáo trộn. Một số luật tục bị xóa bỏ hoặc không được công nhận. Sức
bảo vệ trước dòng chảy văn hóa của một số cộng đồng dân tộc thiểu số trở nên suy yếu
sức sống; văn hóa truyền thống lâu đời đứng trước thách thức bị mai một, thất truyền. Sự
xâm nhập của văn hóa ngoại lai ảnh hưởng đến phong tục, tập quán, dẫn đến việc văn hóa
truyền thống đối diện với nguy cơ bị xâm lấn. Một số lễ hội, nghi lễ tín ngưỡng của đồng
bào dân tộc thiểu số bị ảnh hưởng, pha trộn, lai tạp với văn hóa của các dân tộc sống đan xen.
Thứ ba, trước sự thay đổi, tiếp biến văn hóa, nhìn chung, các dân tộc thiểu số vẫn lưu giữ
được bản sắc trong sinh hoạt văn hóa. Những câu chuyện dân gian, những làn điệu dân
ca, dân vũ vẫn tồn tại trong tâm thức của đồng bào, nhiều phong tục tập quán vẫn được
duy trì. Đời sống văn hóa tinh thần, nhu cầu và khả năng tiếp cận thông tin của người dân
ngày càng được cải thiện tốt hơn. Sinh hoạt văn hóa được mở rộng theo hướng hội nhập.
Tuy nhiên, đây cũng là nguyên nhân làm cho một bộ phận người dân, chủ yếu là người
trẻ có tâm lý sùng bái giá trị văn hóa ngoài cộng đồng, thờ ơ với những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc mình.
Một số giá trị văn hóa cộng đồng như các điệu dân ca, dân vũ, các loại hình nhạc cụ…
được biểu diễn trong không gian mới, giao thoa với giá trị văn hóa các dân tộc khác, do
đó, có những thay đổi về âm thức và tiết tấu. Ở nhiều vùng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ
của đời sống hiện đại đang bào mòn một số di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.
Một số phong tục tập quán mang nét đẹp văn hóa lâu đời của đồng bào dân tộc thiểu số
đang bị biến tướng một cách phản cảm, không phù hợp với bản sắc văn hóa truyền thống,
như tục “bắt vợ”, “kéo vợ” của đồng bào Mông… Nhiều dân tộc chỉ còn lại thế hệ người
già, cao tuổi biết tiếng dân tộc mình, một số lễ hội truyền thống, những tục lệ đẹp nhiều
khi chỉ còn trong trí nhớ của một số nghệ nhân, già làng, trưởng bản.
Thứ tư, quá trình đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ ở vùng dân
tộc thiểu số và miền núi (chủ yếu là những kiến thức khoa học - kỹ thuật phục vụ sản
xuất và đời sống, cũng như các thông tin từ các phương tiện truyền thông) đã tác động
mạnh mẽ đến nhận thức của đồng bào, làm thay đổi tập quán, tâm lý trong đời sống sinh
hoạt. Đây là sự thay đổi tích cực đối với văn hóa sản xuất của đồng bào các dân tộc thiểu
số. Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã biết phát triển kinh tế trang trại, kinh tế
vườn - rừng, vườn - nhà hoặc mở rộng sản xuất thêm những ngành nghề mới, như: nuôi
bò sữa, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu… rất hiệu quả. Nhờ đó, đời
sống ngày càng được cải thiện, sinh kế được bảo đảm.
Tuy nhiên, cũng chính sự biến đổi đó đã làm cho một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số
ngày càng lệ thuộc, thụ động hơn. Họ chờ đợi vốn từ Nhà nước để sản xuất, mua quần áo
may sẵn thay cho cách ăn mặc truyền thống, họ dần quen lối sống của người miền xuôi,
xem nhẹ tri thức bản địa. Đặc biệt, tiếng nói và chữ viết - một trong những yếu tố biểu
trưng nguồn cội của văn hóa tộc người cũng mai một nghiêm trọng. Giá trị văn hóa
truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số đứng trước nguy cơ bị mất dần.
Thực trạng đó cho thấy, chính sách về văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số nhìn chung chưa
đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi đặt ra. Trong thực hiện chính sách, một số lĩnh vực hoạt
động chưa được quy định cụ thể, còn nặng về chủ trương, ví dụ như chính sách đối với
đội ngũ cán bộ văn hóa thông tin cơ sở ở vùng đặc biệt khó khăn; chính sách bảo tồn,
phát huy tiếng nói, chữ viết dân tộc thiểu số trong hoạt động văn hóa thông tin; chính
sách đối với nghệ nhân có nhiều đóng góp trong việc bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc…
Các chính sách về lĩnh vực văn hóa vùng dân tộc thiểu số nhìn chung chưa có tính hệ
thống, một số thiếu tính khả thi, hoặc chỉ được thực hiện ở một số địa phương trong một
thời gian nhất định, do vậy, hiệu quả chưa cao. Hoạt động đầu tư, mức độ đầu tư, cơ chế
đầu tư cho văn hóa các dân tộc thiểu số còn thiên về giải quyết tình huống hoặc mang
tính thí điểm, nên chưa có sức lan tỏa và tính bền vững; tỷ lệ đầu tư cho công tác bảo tồn
văn hóa các dân tộc thiểu số còn khiêm tốn.
1. 2. NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN TRONG XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN
1.2.1. Những thành tựu trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân thiểu số ở Việt Nam hiện nay
ông Bùi Anh Tuấn, Bí thư Huyện ủy Minh Hóa cho hay: “Bằng việc thực hiện lồng ghép
các giải pháp, chính sách đi kèm để tập trung cho công tác phát triển nguồn nhân lực, đến
nay, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ cấp huyện đến cấp xã nói chung
cơ bản bảo đảm tính chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh.
Trên cơ sở kết quả bước đầu, huyện đang phấn đấu đến năm 2025 có đủ nguồn cán bộ để
đổi mới khoảng 30% cán bộ trẻ (dưới 40 tuổi) giữ các chức danh lãnh đạo các cơ quan
Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể cấp huyện và cán bộ giữ các chức danh lãnh đạo chủ
chốt cấp xã, thị trấn; có từ 15% cán bộ nữ trở lên, từ 5-10% cán bộ là người DTTS tham
gia các chức danh lãnh đạo quản lý cấp huyện và cấp xã, thị trấn”.
Trước yêu cầu của thực tiễn, những năm qua, Đảng bộ huyện Tuyên Hóa luôn chăm lo,
xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực và đạt kết quả quan trọng. Đến
nay, đội ngũ cán bộ, công chức từ huyện đến cơ sở từng bước phát triển cả về số lượng và
chất lượng; trong đó, 100% cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện có trình độ chuyên
môn từ trung cấp trở lên và chủ yếu là đại học. Riêng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện,
trên 45% có trình độ thạc sỹ, 82,6% trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị.
Theo ông Bùi Thanh Chuyên, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tuyên Hóa, để tiếp tục
củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở địa phương, Đảng bộ huyện đang ưu
tiên xây dựng, phát triển nguồn nhân lực theo hướng toàn diện về đạo đức, trí tuệ, năng
động, sáng tạo, có năng lực tự học và tự nghiên cứu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Theo đó, huyện đặc biệt quan tâm phát triển nguồn nhân lực cho các địa bàn vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; kết hợp sử dụng cán bộ là người DTTS và cán bộ người
Kinh để bổ sung cho nhau, hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Nhờ quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ là người DTTS nhằm đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, đến nay, 100% cán bộ là người DTTS công
tác tại các cơ quan cấp huyện có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên và trình độ lý
luận chính trị từ trung cấp trở lên, trên 50% cán bộ cấp xã có trình độ THPT.
Chất lượng đội ngũ được nâng lên, hệ thống chính trị ở vùng dân tộc và miền núi, nhất là
chi bộ, ban công tác Mặt trận, chi đoàn, chi hội ở các thôn, bản được củng cố và kiện
toàn. Từ đó, phát huy tốt vai trò nòng cốt trong công tác dân tộc và vận động ĐBDTTS
phát triển kinh tế, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đời sống văn hóa mới.
Cùng chung tay xây dựng hệ thống chính trị ở vùng dân tộc và miền núi, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị-xã hội luôn chú trọng phát huy các nhân tố mới để xây dựng và phát
huy vai trò, vị trí đội ngũ già làng, trưởng bản, người có uy tín trong ĐBDTTS.
Các lực lượng vũ trang đóng quân, công tác trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi đã
chủ động phối hợp với các huyện, xã có ĐBDTTS xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân; tuyên truyền, vận động ĐBDTTS tham gia phong trào “Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm. Vì vậy, trong
những năm qua, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng ĐBDTTS, khu
vực biên giới cơ bản ổn định, không có các điểm nóng, vụ việc phức tạp nổi lên.
Ông Phan Công Khánh, Phó Trưởng ban Dân tộc tỉnh khẳng định: “So với những năm
trước đây, chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở vùng dân tộc và miền núi được
nâng lên, đời sống mọi mặt của ĐBDTTS trên địa bàn tỉnh đã có sự chuyển biến rõ nét.
Số lượng, tỷ lệ hộ khá ngày càng tăng, cơ bản không còn hộ đói; hộ nghèo, hộ cận nghèo ngày càng giảm.
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, luôn giữ vị trí trọng yếu trong xây dựng và bảo vệ đất
nước với 25 dân tộc cùng chung sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 66,2% dân số toàn tỉnh.
Ông Nông Đức Ngọc, Trưởng ban Dân tộc tỉnh Lào Cai cho biết, để phát huy truyền
thống đoàn kết, nâng cao ý thức năng lực tự lực, tự cường của các dân tộc trên địa bàn
tỉnh, giai đoạn 2019 - 2024, Lào Cai sẽ tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở và coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc.
Trong 5 năm qua, hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc và miền núi tỉnh Lào Cai luôn
được đặc biệt quan tâm xây dựng và củng cố, hoạt động có hiệu quả.
Tính đến hết năm 2018, Lào Cai có gần 10.000 cán bộ công chức là người dân tộc thiểu
số (chiếm 32,6% toàn tỉnh), trên 18.500 đảng viên là người dân tộc thiểu số (chiếm gần
40%). Năng lực trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, cán bộ
vùng dân tộc thiểu số ngày càng được nâng cao, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đồng thời, Lào Cai cũng phát huy tốt vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín
trong đồng bào dân tộc thiểu số với những tấm gương tiêu biểu như: ông Hoàng Văn
Tích, người có uy tín xã Kim Sơn, huyện Bảo Yên; bà Lý Thị Chày, người có uy tín xã
Minh Tân, huyện bảo Yên; ông Vàng A Tùng, Bí thư chi bộ, Trưởng thôn Ngải Thầu
Thượng, xã Ngải Thầu, huyện Bát Xát; ông Ma Seo Páo, người uy tín thôn Lũng Pô, xã A
Mú Sung, huyện Bát Xát .Hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc và miền núi tỉnh Lào Cai
ngày càng được xây dựng, củng cố, hoạt động có hiệu quả, đã trở thành nền tảng vững
chắc cho sự phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh.
Với trên 120 chính sách hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số miền núi và hỗ trợ cho
đồng bào dân tộc thiểu số đang được triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh, Lào Cai đã tập
trung hỗ trợ phát triển kinh tế trên cơ sở phát huy tiềm năng, thế mạnh của vùng dân tộc
thiểu số, phát triển văn hóa - xã hội, nhất là hỗ trợ giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe
nhân dân, giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào.
Trong 5 năm qua, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Lào Cai giảm nhanh, bình quân 5-
6%/năm, đến hết năm 2018 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 16,25%.
Giai đoạn 2019-2024, Lào Cai đặt mục tiêu tiếp tục giảm nhanh hộ nghèo vùng dân tộc
thiểu số, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, giảm vùng đặc biệt khó khăn,
tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong vùng dân tộc thiểu số, tăng
cường số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, củng cố hệ
thống chính trị cơ sở, giữ vững khối đại đoàn kết các dân tộc, đảm bảo ổn định an ninh, quốc phòng.
Để đạt mục tiêu trên, tại Đại hội, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai Nguyễn Văn Vịnh yêu cầu các
cấp chính quyền tỉnh Lào Cai tiếp tục chỉ đạo thực hiện đồng bộ, lồng ghép hiệu quả các
chương trình mục tiêu quốc gia, tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện các nội dung Chỉ
thị 40-CT/TU của Tỉnh ủy Lào Cai về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân tộc trên địa bàn tỉnh; Chương trình hành động của UBND tỉnh Lào Cai về thực hiện
Chiến lược công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh đến năm 2020... Đặc biệt, tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương chính sách dân tộc của
Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, các
ngành trong việc thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc...
1.2.2. Những khó khăn trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân thiểu số ở Việt Nam hiện nay
Ở Tây Bắc, Tây Nguyên. Đội ngũ cán bộ ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiếu về số
lượng, yếu về chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng trong giai đoạn
mới. Đặc biệt đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số lại càng thiếu và yếu. Cán bộ tại
các thôn, bản phần đông lớn tuổi, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, nhưng trình độ
năng lực còn yếu, tâm lý ỷ lại còn nặng, do đó năng lực lãnh đạo, điều hành còn nhiều bất
cập. Hệ thống chính trị cơ sở ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc chậm được củng cố,
hiệu quả hoạt động còn nhiều yếu kém, nhất là năng lực triển khai thực hiện các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở còn nhiều lúng túng, bất cập, chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, trong công tác quản lý, tổ chức thực
hiện và vận động quần chúng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống
chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ. Ở nhiều vùng dân tộc, vai
trò của hệ thống chính trị có lúc không rõ ràng, chưa quy tụ, tập hợp được đồng bào. Tình
trạng hoạt động hình thức, thụ động của các đoàn thể đã làm giảm đáng kể vai trò, vị trí
của hệ thống chính trị trong các phong trào ở địa phương. Đó là những khó khăn, thách
thức lớn và là nhiệm vụ bức xúc mà Đảng, Nhà nước ta, đồng bào các dân tộc cùng phải
tập trung giải quyết trong thời gian tới.
1.2.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong xây dựng hệ thống chính trị cơ
sở vùng dân thiểu số ở Việt Nam hiện nay
Thi hành pháp luật nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống là giai đoạn tiếp nối của xây dựng
pháp luật, là chức năng đặc trưng, xuyên suốt của các cơ quan hành chính nhà nước và là
yếu tố quyết định vận hành thông suốt hệ thống pháp luật hướng tới quản trị quốc gia tốt
trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Có thể nói thi hành pháp luật - đưa pháp luật vào đời
sống - là giai đoạn tiếp nối của xây dựng pháp luật - đưa đời sống vào pháp luật, tạo
thành vòng đời liên tục của hệ thống pháp luật quốc gia.[1]
Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong thi hành pháp
luật về dân tộc thiểu số, miền núi được thể hiện bằng kết quả hoạt động của các cơ quan
này trong việc đưa pháp luật về dân tộc thiểu số, miền núi vào cuộc sống. Xét một cách
chung nhất, hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước được đánh giá
bằng các tiêu chí về mức độ tuân thủ pháp luật và mức độ đạt được các mục tiêu của pháp
luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững với mức chi phí hợp lý. Riêng
trong lĩnh vực thi hành pháp luật về dân tộc thiểu số, miền núi thì hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước được đánh giá bằng các tiêu chí về những chỉ
số đánh giá việc hiện thực hóa các mục tiêu của chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước ta đối với dân tộc thiểu số và miền núi.
Chính sách dân tộc là một trong số những chính sách được Đảng, Nhà nước ta quán triệt
và triển khai thực hiện nhất quán từ khi thành lập nước đến nay; đó là,bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, tránh tư tưởng dân tộc lớn, tư tưởng hẹp
hòi dân tộc, tư tưởng tự ti dân tộc; nâng cao mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa cho đồng
bào các dân tộc. Đó cũng chính là giải quyết vấn đề quan hệ dân tộc trong một quốc gia
nhiều dân tộc, mối quan hệ dân tộc quốc gia với dân tộc quốc tế. Từ định hướng chiến
lược này trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, chính sách dân tộc của Đảng lại được bổ
sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước. Hiện nay, tư
tưởng chủ đạo trong đường lối của Đảng ta về chính sách dân tộc được xác định là phải
luôn khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sức mạnh nội lực của dân tộc. Đặt
lợi ích dân tộc và quyền con người lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở xây dựng các chủ
trương, chính sách kinh tế - xã hội, làm nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Có
thể thấy, quan điểm, đường lối chính trị xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
chính sách dân tộc, công tác dân tộc được thể hiện trong ba điểm chính sau:
- Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc. Phát triển toàn diện chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi.
- Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc;
- Các chính sách kinh tế, xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc,
nhất là DTTS. Có chính sách và tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên
mạnh mẽ, phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước nâng cao năng suất lao dộng, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các
vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc. Trong hơn 30 năm thực hiện chính sách
đổi mới, hệ thống pháp luật Việt Nam được xây dựng và hoàn thiện một cách cơ bản,
trong đó có pháp luật về dân tộc thiểu số (DTTS), miền núi. Theo đánh giá của nhiều
chuyên gia trong nước và quốc tế, một số lĩnh vực của hệ thống pháp luật Việt Nam đã
tiệm cận với pháp luật của nhiều nước và pháp luật quốc tế. Đặc biệt, giai đoạn 2011-
2020 là thời kỳ Chiến lược xây dựng và hoàn thiê —n hê — thống pháp luâ —t đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bô — Chính trị)
tiếp tục được triển khai với mục tiêu: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng
bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Trong giai đoạn này, hệ thống pháp
luật đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện cả về nội dung, hình thức, số lượng và
chất lượng: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 157 luật, 12 pháp lệnh;
35 nghị quyết, Chính phủ ban hành 1159 nghị định.
Xét riêng trong lĩnh vực dân tộc thiểu số (DTTS), miền núi, Đảng đã ban hành nhiều văn
bản quan trọng liên quan đến vấn đề dân tộc và công tác dân tộc, trong đó có chính sách
riêng cho DTTS, miền núi. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp
hành Trung ương (khóa IX) xác định những quan điểm cơ bản về công tác dân tộc, đề ra
mục tiêu, những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách, một số giải pháp chủ yếu về công tác dân
tộc. Ngày 30/10/2019, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 65-KL/TW về “Tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công
tác dân tộc trong tình hình mới”.
Thể chế hóa đường lối của Đảng, tính đến tháng 7/2019, Quốc hội đã ban hành 108
luật, hơn 30 nghị quyết có nội dung chính sách liên quan đến lĩnh vực DTTS, miền núi và
vùng đặc biệt khó khăn, bao quát các lĩnh vực dân sự, chính trị; quốc phòng, an ninh, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội; kinh tế, lao động và việc làm; văn hóa, thông tin; giáo dục,
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí; y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân;
bảo vệ môi trường; công tác cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị. Hệ thống chính sách
dân tộc do Chính phủ và các bộ, ngành xây dựng có 118 văn bản, trong đó, có 54 đề án,
chính sách dân tộc trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi.
Các văn bản này về cơ bản đã thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ
trương của Đảng và nhà nước ta đối với dân tộc thiểu số và miền núi, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc và đảm bảo an
ninh - quốc phòng của đất nước. Tiểu kết Chương 1
Qua những tìm hiểu ở trên việc xây dựng hệ thống trính trị cơ sở trong vùng dân tộc thiểu
số ở Việt Nam hiện nay đang khá phát triển. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước trong thi hành pháp luật về dân tộc thiểu số, miền núi được đo
lường thông qua những chỉ số đánh giá việc hiện thực hóa các mục tiêu của chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đối với dân tộc thiểu số và miền núi. Trong giai đoạn
vừa qua,thể chế hóa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về dân tộc
thiểu số và miền núi được xây dựng và hoàn thiện một cách tương đối cơ bản;tuy nhiên,
việc thi hành trên thực tế lại còn một số hạn chế, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của các chủ trương, chính sách này V .
ới quan niệm hiệu quả thi hành pháp luật về dân tộc thiểu số và
miền núi của cơ quan hành chính nhà nước là mức độ đạt được các mục tiêu của pháp
luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi thông qua
việc đảm bảo tuân thủ pháp luật với chi phí thi hành pháp luật hợp lý; thì nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước thi hành pháp luật về dân
tộc thiểu số, miền núi được hiểu là việc làm gia tăng giá trị tích cực của những tác động
thực tế mà pháp luật mang lại cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi khi được thi hành đúng đắn, đầy đủ