Chủ đề 8 - Kinh tế chính trị Mác-Lênin | Quản trị kinh doanh | Trường đại học Nha Trang
Chủ đề 8 - Kinh tế chính trị Mác-Lênin của Trường đại học Nha Trang. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.
Môn: Quản trị kinh doanh (kltn)
Trường: Đại học Nha Trang
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD| 40651217 Chủ đề 8
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
8.1. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
8.1.1. Khái quát cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa
a. Khái niệm cách mạng công nghiệp: Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển
nhảy vọt về chất trình độ của tư liệu lao động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật
và công nghệ trong quá trình phát triển của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về phân
công lao động xã hội cũng như tạo bước phát triển năng suất lao động cao hơn hắn nhờ áp
dụng một cách phổ biến những tính năng mới trong kỹ thuật - công nghệ đó vào đời sống xã hội.
b. Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp
Về mặt lịch sử, cho đến nay, loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp và
đang bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0). Cụ thế:
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1.0) khởi phát từ nước Anh, bắt đầu từ giữa thế kỷ
XVIII đến giữa thế kỷ XIX.
Tiền đề của cuộc cách mạng này xuất phát từ sự trưởng thành về lực lượng sản xuất cho
phép tạo ra bước phát triển đột biến về tư liệu lao động, trước hết trong lĩnh vực dệt vải sau đó
lan tỏa ra các ngành kinh tế khác của nước Anh.
Nội dung cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là chuyển từ lao động thủ
công thành lao động sử dụng máy móc, thực hiện cơ giới hóa sản xuất bằng việc sử dụng năng
lượng nước và hơi nước.
Những phát minh quan trọng tạo tiền để cho cuộc cách mạng này là: Phát minh máy móc
trong ngành dệt như thoi bay của John Kay (1733), xe kéo sợi Jenny (1764), máy dệt của Edmund
Cartwright (1785)... làm cho ngành công nghiệp dệt phát triển mạnh mẽ. Phát minh máy động
lực, đặc biệt là máy hơi nước của James Watt là mốc mở đầu quá trình cơ giới hóa sản xuất. Các
phát minh trong công nghiệp luyện kim của Henry Cort, Henry Bessemer về lò luyện gang, công
nghệ luyện sắt là những bước tiến lớn đáp ứng cho nhu cầu chế tạo máy móc. Trong ngành giao
thông vận tải, sự ra đời và phát triển của tàu hoả, tàu thủy... đã tạo điều kiện cho giao thông vận
tải phát triển mạnh mẽ.
Nghiên cứu về cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, C.Mác đã khái quát tính quy luật của
cách mạng công nghiệp qua ba giai đoạn phát triển là: hợp tác giản đơn, công trường thủ công
và đại công nghiệp. C.Mác khẳng định đó là ba giai đoạn tăng năng suất lao động xã hội; ba giai
đoạn phát triển của lực lượng sản xuất gắn với sự củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tự bản
chủ nghĩa; đồng thời cũng là ba giai đoạn xã hội hóa lao động và sản xuất diễn ra trong quá trình
chuyển biến từ sản xuất nhỏ, thủ công, phân tán lên sản xuất lớn, tập trung, hiện đại.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (2.0), diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. lOMoARcPSD| 40651217
Nội dung của cách mạng công nghiệp lần thứ hai được thể hiện ở việc sử dụng năng
lượng điện và động cơ điện, để tạo ra các dây chuyền sản xuất có tính chuyên môn hoá cao,
chuyển nền sản xuất cơ khí sang nền sản xuất điện - cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai là sự tiếp nối cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất, với những phát minh về công nghệ và sản phẩm mới được ra đời và phổ biến như điện,
xăng dầu, động cơ đốt trong. Kỹ thuật phun khí nóng, công nghệ luyện thép Bessemer trong sản
xuất sắt thép đã làm tăng nhanh sản lượng, giảm chi phí và giá thành sản xuất. Ngành sản xuất
giấy phát triển kéo theo sự phát triển của ngành in ấn và phát hành sách, báo. Ngành chế tạo ô
tô, điện thoại, sản phẩm cao su cũng được phát triển nhanh. Sự ra đời của những phương pháp
quản lý sản xuất tiên tiến của H.For và Taylor như sản xuất theo dây chuyền, phân công lao động
chuyên môn hóa được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp đã thúc đẩy nâng cao năng suất
lao động. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai cũng đã tạo ra những tiến bộ vượt bậc trong
giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba (3.0) bắt đầu từ khoảng những năm đầu thập niên 60
thế kỷ XX đến cuối thế kỷ XX.
Đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng này là sử dụng công nghệ thông tin, tự động hóa
sản xuất. Cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy
tính và số hóa vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên
1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ ba đã đưa tới những tiến bộ kỹ thuật công nghệ nổi bật trong giai đoạn này
là: hệ thống mạng, máy tính cá nhân, thiết bị điện tử sử dụng công nghệ số và robot công nghiệp.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) được đề cập lần đầu tiên tại Hội chợ triển lãm
công nghệ Hannover (CHLB Đức) năm 2011 và được Chính phủ Đức đưa vào “Kế hoạch hành
động chiến lược công nghệ cao" năm 2012.
Gần đây tại Việt Nam cũng như trên nhiều diễn đàn kinh tế thế giới, việc sử dụng thuật
ngữ cách mạng công nghiệp lần thứ tư với hàm ý có một sự thay đổi về chất trong lực lượng sản
xuất trong nền kinh tế thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được hình thành trên cơ sở
cuộc cách mạng số, gắn với sự phát triển và phổ biến của Internet kết nối vạn vật với nhau
(Internet of Things – IoT). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có biểu hiện đặc trưng là sự xuất
hiện các công nghệ mới có tính đột phá về chất như trí tuệ nhân tạo, big data, in 3D...
Như vậy, mỗi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện có những nội dung cốt lõi về tư liệu
lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động đã thúc đẩy sự phát triển của văn minh nhân loại.
Theo nghĩa đó, vai trò của cách mạng công nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thúc đấy phát triển.
c. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển
Vai trò của các cuộc cách mạng công nghiệp đối với phát triển có thể được khái quát như lOMoARcPSD| 40651217
Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến sự phát triển lực
lượng sản xuất của các quốc gia và đồng thời, tác động mạnh mẽ tới quá trình điều chỉnh cấu
trúc và vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất xã hội. Về tư liệu lao động, từ chỗ máy
móc ra đời thay thế cho lao động chân tay cho đến sự ra đời của máy tính điện tử, chuyển nền
sản xuất sang giai đoạn tự động hóa, tài sản cố định thường xuyên được đổi mới, quá trình tập
trung hóa sản xuất được đẩy nhanh.
Cách mạng công nghiệp có vai trò to lớn trong phát triển nguồn nhân lực, nó vừa đặt ra
những đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao nhưng mặt khác lại tạo điều kiện để
phát triển nguồn nhân lực. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, nâng cao năng suất lao động, gia tăng của cải vật chất, dẫn đến những thay đổi to lớn về
kinh tế xã hội, văn hóa và kỹ thuật. C.Mác và Ph.Ănghen đã nhận xét rằng: “Giai cấp tư sản,
trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại", Cuộc cách mạng
này đã đưa nước Anh trở thành một cường quốc kinh tế ở Châu Âu và thế giới lúc bấy giờ, tạo
ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa tư bản và khẳng định sự thắng lợi của nó với chế độ
phong kiến. Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã hình thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội
là tư sản và vô sản. C.Mác và Ph.Ănghen chỉ rõ: “bản thân giai cấp tư sản hiện đại cũng là sản
phẩm của một quá trình phát triển lâu dài, của một loạt các cuộc cách mạng trong phương thức
sản xuất và trao đổi". Với việc máy móc thay thế lao động thủ công đã làm gia tăng nạn thất
nghiệp, công nhân phải lao động với cường độ cao, mức độ bóc lột lao động tăng lên làm cho
mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng gay gắt. Đây là nguyên
nhân làm bùng nổ những cuộc đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân Anh vào cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX, sau đó lan rộng sang các nước khác như Pháp, Đức.
Về đối tượng lao động, cách mạng công nghiệp đã đưa sản xuất của con người vượt quá
những giới hạn về tài nguyên thiên nhiên cũng như sự phụ thuộc của sản xuất vào các nguồn
năng lượng truyền thống. Các yếu tố đầu vào của sản xuất sẽ thay đổi căn bản. Những đột phá
của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm mất đi những lợi thế sản xuất truyền thống, đặc biệt
là từ các nước đang phát triển như nhân công rẻ, dồi dào hay sở hữu nhiều tài nguyên. Về xu
hướng tất yêu mang tính quy luật này, cách đây gần hai thế kỷ, C.Mác đã dự báo: “Theo đà phát
triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải sẽ trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và
số lượng lao động đã chi phí mà phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất" và
“Thiên nhiên không chế tạo ra máy móc.” Tất cả những cái đó đều là sản phẩm của lao động của
con người, đều là sức mạnh đã vật hóa của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho
thấy trị thức xã hội phổ biến, đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục
tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến lOMoARcPSD| 40651217
Thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp tạo điều kiện để các nước tiên tiến tiếp
tục đi xa hơn trong phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng các thành tựu khoa học công
nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời sống. Đồng thời, tạo cơ hội cho các nước đang và kém phát
triển tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học công nghệ, tận dụng lợi thế của những nước
đi sau; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để bứt phá, rút ngắn khoảng cách về trình độ
phát triển với các nước đi trước.
Cách mạng công nghiệp tạo cơ hội cho các nước phát triển nhiều ngành kinh tế và những
ngành mới thông qua mở rộng ứng dụng những thành tựu về công nghệ thông tin, công nghệ số,
công nghệ điều khiển, công nghệ sinh học. Cách mạng công nghiệp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế mới theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế hiệu quả cao. Các
thành tựu mới của khoa học - công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân
phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản trị..
Từ góc độ tiêu dùng, người dân được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với nhiều sản phẩm và
dịch vụ mới có chất lượng cao với chi phí thấp hơn. Cách mạng công nghiệp 4.0 mới chỉ bắt đầu
ở một vài nước, nhưng cách mạng công nghiệp 3.0 lại đang tác động mạnh hơn ở đại đa số các
quốc gia trên thế giới. Một số nước lạc hậu hiện chưa thực hiện xong các nội dung của cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai. “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai vẫn chưa
đến được với 17% dân số của thế giới - tức ước tính khoảng gần 1,3 tỉ người chưa tiếp cận được
với điện. Điều này cũng chính xác với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, với hơn một nửa
dân số thế giới, 4 tỷ người mà phần lớn đang sống ở những nước đang phát triển, chưa tiếp cận
internet"'. Hiện nay, các nước đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam đều phải nỗ lực
thực hiện công nghiệp hóa, xây dựng nền kinh tế công nghiệp.
Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất
Các cuộc cách công nghiệp tạo sự phát triển nhảy vọt về chất trong lực lượng sản xuất và
sự phát triển này tất yếu dẫn đến quá trình điều chỉnh, phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất
xã hội và quản trị phát triển.
Trước hết là sự biến đổi về sở hữu tư liệu sản xuất. Ngay từ cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất, nền sản xuất lớn ra đời thay thế dẫn cho sản xuất nhỏ, khép kín, phân tán. Quá trình
tích tụ và tập trung tư bản dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư và cạnh tranh gay gắt đã
đẻ ra những xí nghiệp có quy mô lớn. Dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, sở hữu
tư nhân không còn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của sản xuất và yêu cầu cải tiến kỹ thuật. Tư
bản buộc phải liên kết lại dưới hình thức công ty cổ phần và sự phát triển của loại hình công ty
này cho phép mở rộng chủ thể sở hữu tư bản ra các thành phần khác của xã hội. Thực tế trên
buộc các nước phải điều chỉnh chế độ sở hữu, thực hiện đa dạng hóa sở hữu, lấy sở hữu tư nhân
làm nòng cốt đồng thời phát huy sức mạnh và ưu thế tối đa của sở hữu nhà nước và khu vực kinh
tế nhà nước. Cùng với sự phát triển của các nước ở châu Âu, những thành tựu khoa học - công
nghệ được phát triển và ứng dụng mạnh mẽ ở Mỹ, đưa Mỹ từ một nước tư bản non trẻ trở thành
quốc gia phát triển nhanh nhất lúc bấy giờ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã nâng cao lOMoARcPSD| 40651217
hơn nữa năng suất lao động, tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ, từ nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ, thương mại, đồng thời
dẫn đến quá trình đô thị hoá, chuyển dịch dân cư từ nông thôn sang thành thị. Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ hai đã làm thay đổi về sức mạnh và tương quan lực lượng giữa các nước
Đức, Ý, Nhật so với các nước Anh, Pháp Mỹ, làm gia tăng mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát
triển, từ đó dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 -1918) và cuộc chiến tranh thế
giới thứ hai (1939 - 1945) đòi phân chia lại thuộc địa. Đây là những cuộc chiến tranh có quy mô
lớn trong lịch sử nhân loại, gây ra những thiệt hại to lớn về kinh tế và con người. Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ hai đã đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất, thúc đẩy chủ nghĩa tư
bản chuyển biến từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, làm gia tăng mâu thuẫn
của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn này. Đó là tiền đề cho Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công, thiết lập nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, đồng thời hình thành hệ thống xã hội
chủ nghĩa sau chiến tranh thế giới thứ hai. Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển của xã hội loài người trên phạm vi toàn thế giới.
Cách mạng công nghiệp cũng đặt ra những yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,
tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và trao đổi thành tựu khoa học công nghệ
giữa các nước. Cách mạng công nghiệp làm cho lĩnh vực tổ chức, quản lý kinh doanh cũng có
sự thay đổi to lớn. Việc quản lý quá trình sản xuất của các doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn,
thông qua ứng dụng các công nghệ như internet, trí tuệ nhân tạo, mô phỏng, robot... từ đó tạo
điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu và năng lượng mới hiệu quả giúp nâng
cao năng suất lao động và định hướng lại tiêu dùng.
Trong lĩnh vực phân phối, cách mạng công nghiệp mà nhất là cách mạng công nghiệp 4.0
đã thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, làm giảm chi phí sản xuất, nâng cao thu nhập và cải
thiện đời sống của người dân. Cách mạng công nghiệp 4.0 giúp cho việc phân phối và tiêu dùng
trở nên dễ dàng và nhanh chóng, làm thay đổi đời sống xã hội của con người. Tuy nhiên, nó lại
có tác động tiêu cực đến việc làm và thu nhập. Nạn thất nghiệp và phân hóa thu nhập gay gắt
hơn là nguyên nhân chính dẫn đến gia tăng bất bình đẳng, buộc các nước phải điều chỉnh chính
sách phân phối thu nhập và an sinh xã hội, nhằm giải quyết những mâu thuẫn cố hữu trong phân
phối của nền kinh tế thị trường. Cách mạng công nghiệp tạo điều kiện để tiếp thu, trao đổi kinh
nghiệm tổ chức, quản lý kinh tế - xã hội giữa các nước. Thông qua đó, các nước lạc hậu có thể
rút ra những bài học kinh nghiệm của các nước đi trước để hạn chế những sai lầm, thất bại trong quá trình phát triển.
Cách mạng công nghiệp cũng tạo điều kiện cho các nước mở rộng quan hệ đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, huy động cao nhất các nguồn lực bên ngoài cho phát triển, từng
bước tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, tạo khả năng biến đổi các hệ thống sản xuất, quản lý,
quản trị kinh tế và doanh nghiệp; phát triển những mô hình kinh doanh mới, nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp. lOMoARcPSD| 40651217
Ba là, thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba làm cho sản xuất xã hội có những bước phát triển
nhảy vọt. Công nghệ kỹ thuật số và Internet đã kết nối giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp,
giữa doanh nghiệp với cá nhân và giữa các cá nhân với nhau trên phạm vi toàn cầu, thị trường
được mở rộng, đồng thời dần hình thành một “thế giới phẳng". Thành tựu khoa học mang tính
đột phá của cách mạng công nghiệp lần thứ ba là sáng chế và áp dụng máy tính điện tử, hoàn
thiện quá trình tự động hóa có tính hệ thống để đưa tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế chuyển
sang một trạng thái công nghệ hoàn toàn mới. Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện để chuyển
biến các nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hàm lượng tri thức tăng lên trong sản
phẩm và dịch vụ, khoảng cách thời gian từ phát minh khoa học đến ứng dụng vào thực tiễn ngày càng được rút ngắn.
Phương thức quản trị, điều hành của chính phủ cũng có sự thay đổi nhanh chóng để thích
ứng với sự phát triển của công nghệ mới, hình thành hệ thống tin học hóa trong quản lý và “chính
phủ điện tử". Thể chế quản lý kinh doanh trong các doanh nghiệp cũng có những biến đổi lớn
với việc sử dụng công nghệ cao để cải tiến quản lý sản xuất, thay đổi hình thức tổ chức doanh
nghiệp. Các công ty xuyên quốc gia (TNC) ngày càng có vai trò quan trọng trong hệ thống kinh
tế tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhà nước của các quốc gia ngày càng chú
trọng phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô, điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường. Bên
cạnh đó, sự hình thành các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế cũng tạo ra những chủ thể mới
trong điều tiết quan hệ kinh tế quốc tế.
Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động mạnh mẽ đến phương thức quản trị và điều hành
của nhà nước. Việc quản trị và điều hành của nhà nước phải được thực hiện thông qua hạ tầng
số và Internet. Kỷ nguyên số với các công nghệ mới, nền tảng điều hành mới liên tục thay đổi
cho phép người dân được tham gia rộng rãi hơn vào việc hoạch định chính sách. Đồng thời, các
cơ quan công quyền có thể dựa trên hạ tầng công nghệ số để tối ưu hóa hệ thống giám sát và
điều hành xã hội theo mô hình “chính phủ điện tử", “đô thị thông minh"... Bộ máy hành chính
nhà nước vì vậy phải cải tổ theo hướng minh bạch và hiệu quả.
Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tác động mạnh mẽ đến phương thức quản trị và điều
hành của doanh nghiệp. Sự thay đổi của công nghệ sản xuất dựa trên ứng dụng công nghệ cao
vào sản xuất làm cho các doanh nghiệp phải thay đổi cách thức thiết kế, tiếp thị và cung ứng
hàng hóa dịch vụ theo cách mới, bắt nhịp với không gian số. Các doanh nghiệp cần phải xây
dựng chiến lược kinh doanh xuất phát từ nguồn lực, trong đó, nguồn lực chủ yếu là công nghệ,
trí tuệ đổi mới, sáng tạo. Trên cơ sở đó, xây dựng định hướng chiến lược và hoạch định kế hoạch
phát triển một cách hiệu quả nhất, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Phương thức quản trị doanh nghiệp dựa trên áp dụng các phần mềm và quy trình trong
quản lý, tiến hành số hóa các quá trình quản trị, quá trình kinh doanh, bán hàng sẽ tiết giảm
được chi phí quản lý, điều hành. Làn sóng công nghệ mới giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lOMoARcPSD| 40651217
lực sản xuất, đáp ứng chính xác hơn nhu cầu của khách hàng, tạo giá trị gia tăng bằng chất
lượng chứ không phải bằng tài chính, khoáng sản hay lao động phổ thông, đồng thời có thể sử
dụng công nghệ để tối ưu việc sử dụng các nguồn lực bên ngoài. Các xu thế công nghệ cũng
đang mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể
khởi nghiệp sáng tạo, có cơ hội thâm nhập thị trường ngách với nhiều sản phẩm, dịch vụ công
nghệ mang tính đột phá. Việc phát triển và phổ biến công nghệ thông tin cũng đặt ra nhiều vấn
đề an ninh mạng, về bảo mật thông tin và dữ liệu đối với chính phủ, doanh nghiệp và người dân.
Cách mạng công nghiệp 4.0 yêu cầu các quốc gia phải có hệ thống thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, chuyển đổi hoạt động sản xuất lên một trình độ cao hơn, tri thức hơn, tạo ra năng suất và
giá trị cao hơn, nâng cao sức cạnh tranh, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của quá trình toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 cũng đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn với doanh nghiệp. Làn sóng đối mới công
nghệ tốc độ cao song hành với hội nhập và tự do hóa thương mại toàn cầu sẽ tạo sức ép cạnh
tranh rất lớn, buộc các doanh nghiệp phải thích ứng với vai trò của cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0).
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ có quy mô vô cùng lớn và lan truyền
với tốc độ nhanh chóng và mạnh mẽ. Nó sẽ làm thay đổi nhận thức của con người trong nhiều
lĩnh vực, tái tạo lại thế giới mà chúng ta đã biết, giúp chúng ta có những định hướng đúng đắn
trong tương lai. "Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có một tác động rất lớn và đa diện tới nền
kinh tế toàn cầu, đến mức nó khiến cho các nền kinh tế khó có thể thoát khỏi một hiệu ứng
riêng lẻ nào.…tất cả các biến số vĩ mô lớn mà người ta có thể nghĩ đến như GDP, đầu tư, tiêu
dùng, việc làm, thường mại, lạm phát..đều sẽ bị ảnh hưởng".
Theo Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2016), những lĩnh vực chịu tác động mạnh
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư bao gồm. Lĩnh vực bán lẻ, ngành sản xuất phương
tiện vận chuyển, các nhà máy sản xuất, lĩnh vực nhà ở, lĩnh vực văn phòng, nơi làm việc, các
thành phố, môi trường sống của con người, nguồn nhân lực. Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư làm thay đổi hệ thống sản xuất, chuyển sản xuất từ tập trung sang phân cấp. Trí thông minh
nhân tạo làm thay con người trong nhiều qúa trình sản xuất, tạo ra sự tương tác giữa con người
với công nghệ và sản phẩm. Công nghệ thông tin và truyền thông thông minh giúp trao đổi và
trả lời các thông tin để quản lý quá trình sản xuất. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ có sự
hợp nhất về công nghệ, từ đó xóa bỏ ranh giới giữa các lĩnh vực kỹ thuật số, vật lý và sinh học.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chi là sự phát triển của công nghệ cao có khả
năng kết nối và tạo ra một mạng lưới trao đổi thông tin giữa tất cả mọi vật, mà nó còn nhiều
lĩnh vực như: gen, công nghệ nano, năng lượng tái tạo, máy tính lượng tử...đưa kinh tế thế giới
bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào các động lực không có trần giới hạn là công
nghệ và đổi mới sáng tạo, vả lại bản đồ kinh tế thế giới, với sự suy giảm quyền lực của các quốc lOMoARcPSD| 40651217
gia dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia dựa chủ yếu
vào công nghệ và đổi mới sáng tạo, tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, với sự xuất hiện của
robot có trí tuệ nhân tạo làm biến đổi tất cả các ngành công nghiệp, từ sản xuất đến cơ sở hạ
tầng, mang lại nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực giao thông, y tế, giáo dục. Cách mạng công
nghiệp 4.0 cũng có thể thay đổi hoàn toàn cách con người sinh sống, làm việc và quan hệ với
nhau. Cuộc cách mạng này đã tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới với chi phí không đáng kê.
Internet, điện thoại thông minh và hàng ngàn các ứng dụng khác đang làm cho cuộc sống của
con người trở nên thuận tiện và năng suất hơn đồng thời tạo điều kiện để mọi người đều có
thể khởi nghiệp, tạo khả năng giải phóng con người khỏi lao động chân tay nặng nhọc để họ có
thể phát triển hơn nữa sự sáng tạo trong lao động.
Những tác động mang tính tích cực nêu trên của cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện
nay đang đặt ra nhiều cơ hội cũng như thách thức. Thách thức lớn nhất là khoảng cách phát triển
về lực lượng sản xuất mà các quốc gia phải đối diện. Điều này đòi hỏi các quốc gia còn ở trình
độ phát triển thấp như nước ta cần phải biết thích ứng hiệu quả với những tác động mới của cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0). Cần nhấn mạnh rằng, sự thích ứng này không phải là nhiệm
vụ của nhà nước hay doanh nghiệp mà là của toàn dân, mỗi công dân, trong đó mỗi sinh viên
cần ý thức được những tác động mới để có giải pháp tích cực, phù hợp.
8.1.2. Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới
* Công nghiệp hoá: Là quá trình chuyển đổi nền sản xuất xã hội từ dựa trên lao động
thủ công là chính sang nền sản xuất xã hội dựa chủ yếu trên lao động bằng máy móc nhằm tạo
ra năng suất lao động xã hội cao.
* Các mô hình công nghiệp hoá tiêu biểu trên thế giới -
Mô hình công nghiệp hoá cổ điển: Công nghiệp hoá của các nước tư bản cổ điển,
mà tiêu biểu là nước Anh được thực hiện gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất,
nổ ra vào giữa thế kỷ XVIII. Công nghiệp hoá ở nước Anh được bắt đầu từ ngành công nghiệp
nhẹ, mà trực tiếp là ngành công nghiệp dệt là ngành đòi hỏi vốn ít, thu lợi nhuận nhanh. Sự phát
triển của ngành công nghiệp dệt ở Anh, đã kéo theo sự phát triển của ngành trồng bông và chăn
nuôi cừu, để đáp ứng nguyên liệu cho ngành công nghiệp dệt. Ngành công nghiệp nhẹ và nông
nghiệp phát triển, đòi hỏi phải cung cấp nhiều máy móc, thiết bị cho sản xuất từ đó đã tạo tiền
đề cho sự phát triển của ngành công nghiệp nặng, mà trực tiếp là ngành cơ khí chế tạo máy.
Nguồn vốn để công nghiệp hoá ở các nước tư bản cổ điển chủ yếu do bóc lột lao động
làm thuê, làm phá sản những người sản xuất nhỏ trong nông nghiệp, đồng thời gắn liền với việc
xâm chiếm và cướp bóc thuộc địa. Quá trình này đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa tư bản và
lao động, làm bùng nổ những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại nhà tư bản ở các
nước tư bản lúc bấy giờ, tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác - vũ khí lý luận của giai
cấp công nhân chống lại CNTB. Quá trình công nghiệp hoá ở các nước tư bản cổ điển cũng dẫn
đến mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, đưa đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất
1914 - 1918 và chiến tranh thế giới lần thứ hai 1939 - 1945 đòi phân chia lại thuộc địa giữa các lOMoARcPSD| 40651217
nước tư bản. Ngoài ra, mâu thuẫn giữa các nước tư bản với các nước thuộc địa, trong quá trình
xâm chiếm và cướp bóc thuộc địa đã dẫn đến phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước
thuộc địa, thoát khỏi sự thống trị và áp bức của các nước tư bản.
Quá trình công nghiệp hoá của các nước tự bản cổ điển diễn ra trong một thời gian tương
đối dài, trung bình từ 60 - 80 năm. -
Mô hình công nghiệp hoá kiểu Liên Xô (cũ): Mô hình này bắt đầu từ đầu những
năm 1930 ở Liên Xô (cũ) sau đó được áp dụng cho các nước XHCN ở Đông Âu (cũ) sau năm
1945 và một số nước đang phát triển đi theo con đường XHCN, trong đó có Việt Nam vào những
năm 1960. Con đường công nghiệp hoá theo mô hình Liên Xô (cũ) thường là ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi nhà nước phải huy động những nguồn
lực to lớn trong xã hội, từ đó phân bố, đầu tư cho ngành công nghiệp nặng, mà trực tiếp là ngành
cơ khí, chế tạo máy, thông qua cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mệnh lệnh. Công nghiệp hoá với
mục tiêu và cơ chế nêu trên, đã cho phép trong một thời gian ngắn các nước theo mô hình Liên
Xô (cũ) đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật to lớn, hoàn thành được mục tiêu
đề ra. Tuy nhiên, khi tiến bộ khoa học, kỹ thuật ngày càng phát triển, hệ thống cơ sở vật chất -
kỹ thuật to lớn ở trình độ cơ khí hoá, đã không thích ứng được, làm kìm hãm việc ứng dụng
những tiên bộ kỹ thuật mới, đồng thời với cơ chế kế hoạch hoá tập trung mệnh lệnh được duy
trì quá lâu đã dẫn đến sự trì trệ, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng
và sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu. -
Mô hình công nghiệp hoá của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICS): Rút
kinh nghiệm từ quá trình công nghiệp hoá của các nước tư bản cổ điển và các nước XHCN (cũ),
Nhật Bản và các nước công nghiệp hoá mới (NICS) như Hàn Quốc, Singapor đã tiến hành công
nghiệp hoá theo con đường mới. Chiến lược công nghiệp hoá của các nước này, thực chất là
chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển sản xuất trong nước thay
thế hàng nhập khẩu, thông qua việc tận dụng lợi thế về khoa học, công nghệ của các nước đi
trước, cùng với việc phát huy nguồn lực và lợi thế trong nước, thu hút nguồn lực từ bên ngoài
để tiến hành công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá. Kết quả là trong một khoảng thời gian ngắn,
trung bình khoảng 20 - 30 năm đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ thực tiễn của Nhật Bản và các nước công nghiệp hoá mới (NICS) cho thấy, trong thời đại
ngày nay các nước đi sau nếu biết khai thác tốt lợi thế trong nước và tận dụng, tiếp thu những
nguồn lực, đặc biệt là những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại của các nước tiên tiến,
thì sẽ giúp cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả.
Việc tiếp thu và phát triển khoa học, công nghệ mới, hiện đại của các nước kém phát triển
có thể thực hiện bằng các con đường cơ bản như:
+ Một là, thông qua đầu tư nghiên cứu, chế tạo và hoàn thiện dần dần trình độ công nghệ
từ trình độ thấp đến trình độ cao, con đường này thường diễn ra trong thời gian dài và tổn thất
nhiều trong quá trình thử nghiệm. lOMoARcPSD| 40651217
+ Hai là, tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước phát triển hơn, con đường
này một mặt đòi hỏi phải có nhiều vốn và ngoại tệ, mặt khác luôn luôn chịu sự phụ thuộc vào nước ngoài.
+ Ba là, xây dựng chiến lược phát triển khoa học, công nghệ nhiều tầng, kết hợp cả công
nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Kết hợp vừa nghiên cứu chế tạo vừa tiếp nhận chuyến
giao công nghệ từ các nước phát triển hơn, con đường vừa cơ bản, lâu dài và vững chắc vừa đảm
bảo đi tắt và bám đuổi theo các nước phát triển hơn.
Nhật Bản và các nước công nghiệp hoá mới (NICS), đã sử dụng con đường thứ ba để tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kết hợp với những chính sách phát triển đúng đắn và hiệu
quả, từ đó đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong một khoảng
thời gian ngắn đã gia nhập vào nhóm các nước công nghiệp phát triển. Con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của Nhật Bản và các nước công nghiệp hoá mới (NICS) là gợi ý tốt cho Việt
Nam trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nến kinh tế quốc dân.
8.1.3 - Tính tất yêu khách quan và nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
a. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Ở Việt Nam, kế thừa
có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về công nghiệp hoá vào điều
kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
Công nghiệp hóa, hiện đai hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm
tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Công nghiệp hoá, hiện đai hoá ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau đây: -
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục
tiêu"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". -
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. -
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa. -
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và Việt Nam
đangtích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao gồm:
Một là, lý luận và thực tiễn cho thấy, công nghiệp hóa là quy luật phổ biến của sự phát
triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù ở các quốc gia phát triển sớm hay các quốc gia đi sau.
Công nghiệp hóa là quá trình tạo ra động lực mạnh mẽ cho nền kinh tế, là đòn bẩy quan
trọng tạo sự phát triển đột biến trong các lĩnh vực hoạt động của con người. Thông qua công
nghiệp hóa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân được trang bị những tư liệu sản lOMoARcPSD| 40651217
xuất, kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại, từ đó nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều của
cải vật chất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của con người.
Mỗi phương thức sản xuất có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ
thuật của một phương thức sản xuất là hê thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã
hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để tiến hành quá trình
lao động trình độ hiện đại của một nền kinh tế, nó cũng là điều kiện quyết định để xã hội có thể
đạt được một năng suất lao động nào đó. Bất kỳ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải
thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng cơ sẽ vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp
lý có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành
một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế
mang tính phố biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có công nghiệp,
có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng chỉ là những tiền đề vật
chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, các nước này phải thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất; tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những
thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất; hình thành cơ cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa
có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý,
hiệu quả hơn. sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ thuật được xem là tiêu chuẩn để đánh giá mức độ phát triển.
Hai là, đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu thông qua
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mối bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một
bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó từng bước
nâng dần trình độ văn minh của xã hội.
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xây dựng CNXH đòi hỏi phải có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên những tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại. Để thực hiện được điều này,
trước hết đòi hỏi phải xây cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, dựa trên cơ sở những thành tựu
khoa học, công nghệ mới, hiện đại tạo ra năng suất lao động cao. Quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH dựa trên những thành tựu khoa
học, công nghệ tiên tiến, hiện đại, tạo ra lực lượng sản xuất phát triển với quan hệ sản xuất ngày
càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao đời lOMoARcPSD| 40651217
sống vật chất, tinh thần của người dân, củng cố an ninh, quốc phòng, nâng cao khả năng hợp tác
quốc tế thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam, trước hết là nhằm xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế dựa trên những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện
đại. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là một bước tăng cường cơ sở
vật chất - kỹ thuật của CNXH, đồng thời củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, làm
cho nền sản xuất xã hội không ngừng phát triển, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người
dân không ngừng được nâng cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển lực lượng sản xuất, nhằm khai thác, phát huy
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, nâng cao dần tính độc lập, tự chủ
của nền kinh tế. Đồng thời, thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa các ngành, các vùng trong nước và
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế ngày càng hiệu quả.
Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm cho khối liên minh công nhân,
nông dân và trí thức ngày càng được tăng cường, củng cố, đồng thời nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thực hiện cũng sẽ tăng cường tiềm lực cho an ninh,
quốc phòng, góp phần nâng cao sức mạnh của an ninh, quốc phòng, đồng thời tạo điều kiện vật
chất và tinh thần để xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN.
Như vậy, có thể nói công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhân tố quyết định sự thắng lợi của
con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Vì vậy, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa được Đảng và Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
b. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Căn cứ trên cơ sở khái niệm
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam gồm những nội dung như sau:
Một là, tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản xuất - xã hội
lạc hậu sang nên sản xuất - xã hội tiến bộ
Muốn thực hiện chuyển đổi trình độ phát triển, đòi hỏi phải dựa trên những tiền đề trong
nước, quốc tế. Do đó, nội dung quan trọng hàng đầu để thực hiện thành công công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là phải thực hiện tạo lập các điều kiện cần thiết trên tất cả các mặt của đời sống sản
xuất xã hội. Tuy vậy, không có nghĩa là chờ chuẩn bị đầy đủ mới thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Thực tế phải thực hiện các nhiệm vụ một cách đồng thời.
Hai là, thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất - xã hội lạc hậu sang nền sản
xuất - xã hội hiện đại. Cụ thể là:
* Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình chuyển từ lao động thủ công, kỹ
thuật lạc hậu lên lao động sử dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại để nâng cao năng suất lOMoARcPSD| 40651217
lao động xã hội. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi phải từng bước trang bị cơ sở vật chất, kỹ
thuật ngày càng hiện đại cho nền sản xuất, thông qua việc thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá.
Đối với những nước còn kém phát triển, trình độ kỹ thuật công nghệ của sản xuất còn lạc
hậu, thì nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện cơ khí hoá nhằm thay thế lao động thủ công bằng lao
động sử dụng máy móc, để nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, trong những ngành nghề và
lĩnh vực của nền kinh tế khi điều kiện và khả năng cho phép, vẫn có thể ứng dụng ngay những
thành tựu khoa học, công nghệ mới hiện đại để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Để phát triển lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng nền kinh tế có tính độc lập tự chủ
cao, quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi xây dựng và phát triển ngành công
nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, vì đây là ngành có vị trí quan trọng quyết định cho sự phát triển
của các ngành khác. Khi nghiên cứu lý luận về tái sản xuất trong CNTB, V.I.Lênin đã rút ra quy
luật: cần phải ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo ra tư liệu sản xuất. Nếu thực
hiện được điều này, thì cũng chính là quá trình xây dựng nên kinh tế có tính độc lập, tự chủ cao.
Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đòi hỏi phải ứng dụng những thành
tựu khoa học công nghệ mới hiện đại vào tất cả các ngành, các vùng, các lĩnh vực của nên kinh
tế. Tuy nhiên, cần phải có sự lựa chọn cho phù hợp với khả năng, trình độ và điều kiện thực tiễn
trong từng giai đoạn, không chủ quan, nóng vội cũng như không trì hoãn, cản trở việc ứng dụng
khoa học, công nghệ mới, hiện đại trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đòi hỏi phải phát triển các ngành công
nghiệp bao gồm: công nghiệp nhẹ, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm..theo
hướng hiện đại, dựa trên cơ sở những thành tựu khoa học, công nghệ mới. Đồng thời, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, ứng dụng những thành tựu khoa học,
công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất lao động, xây dựng nền nông
nghiệp xanh, sạch, từng bước nâng cao đời sống người nông dân, gắn với xây dựng nông thôn mới.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và ứng dụng khoa học, công nghệ mới, hiện đại đòi hỏi
phải được tiến hành đồng bộ, cân đối ở tất cả các ngành, các vùng và các lĩnh vực của nền kinh
tế, thì mới đem lại hiệu quả cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay phải gắn liền với phát triển kinh tế tri
thức. Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài
nguyên sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra năm 1995: Nền kinh tế tri thức
là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Với định nghĩa trên, có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng
sản xuất xã hội, theo đó trong quá trình lao động của từng người lao động và toàn bộ lao động lOMoARcPSD| 40651217
xã hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động cơ bắp,
hao phí lao động cơ bắp giảm đi vô cùng nhiều trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động
trí óc tăng lên vô cùng lớn.
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là
những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó có
thể là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao (như công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học...): nhưng cũng có thể là những ngành kinh tế truyền thông (như nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng khoa học, công nghệ cao.
Qua thực tế phát triển, có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của kinh tế trị thức như sau: -
Trong nền kinh tế trị thức, trị thức trở thành lực lượng sản xuất tiếp, là vốn quý
nhất,là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. -
Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có
nhữngbiến đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các
thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số. Trong nền kinh
tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được
các mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, kết nối với hầu hết các tổ chức, các gia
đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế. -
Trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hoá; sự
sáng tạo,đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển con
người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
-Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên kết toàn cầu hoá kinh tế, có tác
động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và
trên toàn thế giới. Những đặc điểm trên đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta, nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phố biến
hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới; công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn
với kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức
mới nhất của nhân loại; kết hợp quá trình phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; từng bước phát
triển kinh tế tri thức, để vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững vừa rút ngắn được khoảng
cách với các nước trong khu vực và trên thế giới.
* Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế cũng chính là tổng thể cơ cấu các ngành, cơ cấu các vùng và cơ cấu các thành phần kinh tế. lOMoARcPSD| 40651217
Trong hệ thống các cơ cấu kinh tế, thì cơ cấu ngành kinh tế (công nghiệp - nông nghiệp
- dịch vụ) giữ vị trí quan trọng nhất, vì nó phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế và kết
quả của quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
theo hướng hiện đại, hiệu quả chính là quá trình tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch
vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải gắn liên
với sự phát triển của phân công lao động trong và ngoài nước, từng bước hình thành các ngành,
các vùng chuyên môn hoá sản xuất, để khai thác thế mạnh, nâng cao năng suất lao động, đồng
thời phát huy nguồn lực của các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả phải đáp ứng được các yêu cầu sau: -
Khai thác, phân bố và phát huy hiệu quả các nguồn lực trong nước, thu hút có
hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. -
Cho phép ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiệnđại vào các
ngành, các vùng và các lĩnh vực của nền kinh tế. -
Phù hợp xu thế phát triển chung của nền kinh tế và yêu cầu củatoàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Hệ thống cơ cấu kinh tế tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất, không tách
rời, vì vậy nó đều chịu sự chi phối và tác động của một thể chế, cơ chế và chính sách chung.
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu
quả không thể tách rời sự phát triển các lĩnh vực khác của nền kinh tế như công nghệ thông
tin, năng lượng, viễn thông, giao thông vận tải... Đồng thời, phải được đặt trong chiến lược
phát triển tổng thể của nền kinh tế, có tính đến các mối quan hệ trong và ngoài nước; quan hệ
giữa trung ương với địa phương: quan hệ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh, quốc
phòng; quan hệ giữa tích luỹ với tiêu dùng.
* Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình đô phát triển của lực lượng sản xuất
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở nước ta là nhằm xây
dựng CNXH, vì vậy phải củng cố và tăng cường địa vì chủ đạo của quan hệ sản xuất XHCN, tiến
tới xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất XHCN trong toàn bộ nền kinh tế.
Quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, dựa trên cơ sở những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại, đồng thời phải coi
trọng việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN mà nền tảng là chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất chủ yếu, thực hiện chế độ phân phối theo lao động và phân phối qua các
quỹ phúc lợi xã hội là chủ yếu.
Quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất phải đảm bảo
sự phù hợp với quan hệ sản xuất, đồng thời củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, đảm lOMoARcPSD| 40651217
bảo sự phù hợp trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất là: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan
hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối, trao đổi.
8.1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp lần thứ tư
a. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong bối cảnh cách
mạng công nghiệp lấn thứ tư
Thứ nhất, chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết, giải phóng mọi nguồn lực. Ngày
nay, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tất cả các nước đều chịu sự tác động mạnh mẽ
của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đây là thách thức, đồng thời cũng là cơ hội đối với tất cả
các nước, đặc biệt là các nước còn kém phát triển. Do đó, phải tích cực, chủ động chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để có thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thích ứng được với tác
động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, coi đây là quan điểm xuất phát.
Thứ hai, các biện pháp thích ứng phải được thực hiện đồng bộ, phát huy sức sáng tạo của
toàn dân. Để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự tác động của cách
mạng công nghiệp lần thứ tư với trình độ phát triển như ở nước ta hiện nay là công cuộc mang
tính thách thức lớn. Do đó, đòi hỏi phải thực hiện rất nhiều giải pháp, vừa có những khâu phải
tuần tự, song phải vừa có những khẩu phải có lộ trình tối ưu. Để thành công, những giải pháp
phải được thực hiện một cách đồng bộ, có sự phối hợp của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế -
xã hội, phát huy sức mạnh sáng tạo của toàn dân.
b. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thích ứng với cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, xây dựng nền kinh tế dựa trên nền tảng sáng tạo. Xây dựng
hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đổi mới sáng
tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai. Cải thiện khung pháp lý
cho đổi mới sáng tạo. Tăng nguồn vốn con người cho đổi mới sáng tạo. Đẩy mạnh đổi mới sáng
tạo trong khu vực doanh nghiệp. Thúc đẩy liên kết đối mới sáng tạo. Phát huy vai trò của các
trường đại học, viện, trung tâm nghiên cứu có chất lượng cao ở trong nước, đồng thời kết nối
với mạng lưới tri thức toàn cầu.
Thứ hai, nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0. Huy động ở mức cao nhất các nguồn lực của Nhà nước, của toàn dân và nguồn lực
quốc tế phục vụ cho nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp,
đặc biệt là cách mạng công nghiệp 4.0 vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Để thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tối ưu hoá mô hình kinh doanh, với việc xây dựng dây
chuyền sản xuất hướng tới tự động hoá ngày càng cao, tin học hoá quản lý, triển khai những kỹ
năng mới cho tổ chức và cá nhân, xây dựng chuỗi cung ứng thông minh, đảm bảo an ninh mạng. lOMoARcPSD| 40651217
Thứ ba, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực của cách
mạng công nghiệp 4.0. Xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin và truyền thông.
Cần huy động các nguồn lực khác nhau bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và
nước ngoài để phát triển nhanh chóng hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế. Đẩy mạnh đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Coi
phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin là khâu đột phá trong cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam
Tập trung phát triển tạo sự bứt phá về hạ tầng, ứng dụng và nhân lực công nghệ thông
tin, truyền thông. Phát triển hạ tầng kết nối số và đảm bảo an toàn, an ninh mang, tạo điều kiện
bình đẳng cho người dân và doanh nghiệp khi tiếp cận thông tin và nội dung số.
Việt Nam cần triển khai các giải pháp để phát triển ngành công nghệ thông tin thích ứng
với cách mạng công nghiệp 4.0 như: cảm biển bộ cảm biến, hệ thống điều khiển các ứng dụng
kinh doanh và chăm sóc khách hàng, thu thập thông tin, dữ liệu để hình thành hệ thống dữ liệu
lớn làm cơ sở cho việc phân tích và xử lý dữ liệu để đưa ra những quyết định đúng đắn, có hiệu
quả nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Phát triển ngành công nghiệp. Trước hết cần ưu tiên phát triển ngành công nghiệp cơ khí,
chế tạo phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp chế biến và công nghiệp hàng tiêu dùng. Phát
triển công nghiệp phụ trợ, góp phần tăng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm lắp ráp ở trong nước. Phát
triển công nghiệp năng lượng, công nghiệp hoá chất, điện tử, công nghiệp vật liệu, công nghiệp
hàng tiêu dùng. Phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông, lâm, ngư nghiệp nhằm
nâng cao giá trị hàng xuất khẩu.
Phát triển có chọn lọc một số ngành, lĩnh vực công nghiệp hiện đại và có khả năng tạo
tác động lan tỏa trong nền kinh tế. Tiếp tục xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp theo
hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học - công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm.
Tập trung vào những ngành công nghiệp có tính nền tảng, có lợi thế so sánh" và có ý
nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững; nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền
kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất phân phối toàn cầu. Cụ thể là:
(1) Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp công nghệ
cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí điện tử, công nghiệp quốc phòng - an
ninh. (2) Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh như công nghiệp hỗ trợ, công
nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, từng bước phát
triển công nghệ sinh học, phát triển công nghiệp môi trường trở thành ngành công nghiệp chủ
lực...(3) Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công
nghệ cao, như: du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin. (4) Hiện đại hóa
và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics và
các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh khác lOMoARcPSD| 40651217
Xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, phù hợp với điều kiện và khả năng
thực tế để tạo điều kiện, cơ sở cho việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh ứng dụng
những thành tựu khoa học, công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, để nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả. Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nhằm
khai thác và phát huy tiềm năng, hiệu quả của các ngành này. Thông qua phát triển nông, lâm,
ngư nghiệp để đảm bảo vững chắc an ninh lương thực cho xã hội, đồng thời cung cấp nguyên
liệu cho ngành công nghiệp chế biến, gia tăng giá trị hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường, đẩy
mạnh phân công lao động xã hội, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động,
góp phần xây dựng nông thôn mới.
Ngoài ra, để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn đòi hỏi phải ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất, thực hiện cơ giới hoá, điện
khí hoá, thuỷ lợi hoá, phát triển công, thương nghiệp và dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp, nông
thôn, từng bước xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội tạo điều kiện để thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tập trung đầu tư, hình
thành hệ thống kết cầu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ với một số công trình hiện
đại. Ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực trọng tâm như hạ tầng giao thông đồng bộ, kết nối giữa
các trung tâm kinh tế lớn và giữa các trục giao thông đầu mối. Hạ tầng ngành điện, đảm bảo
cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt. Hạ tầng thủy lợi, đáp ứng yêu cầu phát triển nông
nghiệp và ứng phó hiệu quả với thiên tại và biến đổi khí hậu. Hạ tầng độ thị lớn, được xây dựng
hiện đại, đồng bộ, từng bước đáp ứng chuẩn mực đô thị xanh của một nước công nghiệp.
Phát huy những lợi thế trong nước để phát triển du lịch, dịch vụ. Khai thác những tiềm
năng và lợi thế trong nước để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch xanh. Đồng
thời, phát triển các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính - viễn thông, tài chính, ngân hàng,
kiểm toán, pháp lý, bảo hiểm…và các dịch vụ phục vụ, nâng cao đời sống người dân. Từng bước
đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch, thương mại, dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.
Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ. Xây dựng và chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ phù
hợp với tiềm năng và lợi thế của vùng, từng bước tham gia vào phân công lao động, hợp tác
trong và ngoài nước. Liên kết, hỗ trợ các vùng trong nước để phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội. Xây dựng và phát triển một số vùng kinh tế trọng điểm, làm động lực cho sự phát triển của
các vùng khác. Tạo cơ chế đặc thù để phát triển một số vùng lãnh thổ nhằm khai thác thế mạnh
của vùng lãnh thổ, đồng thời phù hợp với lợi ích chung của quốc gia. Đảm bảo cho người dân
được hưởng những thành quả của sự phát triển vùng lãnh thổ. lOMoARcPSD| 40651217
Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhằm đáp ứng
được những yêu cầu của cách mạng công nghiệp trên cơ sở đổi mới, nâng cao trình độ đào tạo,
sử dụng nhân lực, nhân tài với các giải pháp cơ bản như: (1) Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ lĩnh
vực giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng chất lượng, hiệu quả và coi trọng phát triển phẩm
chất, năng lực của người học. (2) Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục
đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực. (3) Tăng
cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, mà trực tiếp nhất là đầu tư cho lĩnh vực giáo dục,
đào tạo, coi giáo dục là nền tảng và là phương thức tạo ra nguồn lực phát triển. (4) Tổ chức
nghiên cứu khoa học và đào tạo phải thay đổi cơ bản phương thức hoạt động, nâng cao cơ sở,
trang thiết bị nghiên cứu, gắn kết giữa nghiên cứu, đào tạo với doanh nghiệp theo cơ chế hợp
tác cùng có lợi, đưa nhanh các tiến bộ khoa học vào sản xuất và kinh doanh.
Coi trọng chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối
với người tài, coi hiền tài là nguyên khí quốc gia, là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước
trong thời đại khoa học công nghệ mới.
Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Trước hết, cần tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
các nguồn lực từ bên ngoài vào phát triển kinh tế trong nước, đặc biệt là nguồn vốn, công nghệ
và quản lý. Phát huy lợi thế so sánh ở trong nước để phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, từng
bước tham gia vào phân công lao động quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu. Mở rộng quan hệ quốc
tế trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, du lịch, văn hoá. Thực hiện đầy đủ các quy định và cam
kết với các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu như ASEAN, APEC, ASEM, WTO, CPTTP... Đẩy
mạnh quan hệ hợp tác song phương, đa phương trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng
độc lập chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
8.2. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
8.2.1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
a. Khái niệm và sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế
Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá
trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự
chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế;
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa là
khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra do mối
liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn
hóa, kinh tế... trên quy mô toàn cầu. Theo Manfred B. Steger, toàn cầu hóa là “chỉ một tình
trạng xã hội được tiêu biểu bởi những mỗi hỗ trợ liên kết toàn cầu chặt chẽ về kinh tế, chính
trị, văn hóa, môi trường và các luồng luân lưu đã khiến cho nhiều biên giới và ranh giới đang
hiện hữu không còn thích hợp nữa"'. Toàn cầu hoá diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, lOMoARcPSD| 40651217
chính trị, văn hoá, xã hội...trong đó, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung
tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hoá các lĩnh vực khác. Toàn cầu hoá
kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia,
khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lần nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng
tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Toàn cầu hóa đi liền với khu vực hóa. Khu vực hoá kinh tế chỉ diễn ra trong một không
gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu mậu dịch tự do, đồng minh (liên minh)
thuế quan, đồng minh tiền tệ, thì trường chung, đồng minh kinh tế…nhằm mục đích hợp tác,
hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xoá bỏ những trăn trở trong việc di chuyển đến lực
lượng lao động, hàng hoá dịch vụ, tiến tới tự do hoá hoàn toàn những M.B.Steges: Toàn cầu
hóa di chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực. Trong điều kiện toàn cầu hóa
kinh tế, khu vực hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu khách quan: Toàn cầu
hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động quốc tế, các mối liên
hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của các nước trở
thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế toàn cầu. Trong toàn cầu hóa kinh
tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Do đó, nếu không hội nhập kinh
tế quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong
nước. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu
đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cách mạng công
nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát triển.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất
là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp
cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh nghiệm
của các nước cho phát triển của mình. Khi mà các nước tư bản giàu có nhất, các công ty xuyên
quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác
động lên toàn thế giới thì chỉ có phát triển kinh tế mở và hội nhập quốc tế, các nước đang và
kém phát triển mới có thể tiếp cận được nhưng năng lực này cho phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát triển
có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc
phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ mô. Việc mở
cửa thị trường, thu hút vốn không chỉ thúc đẩy công nghiệp hoá mà còn tăng tích luỹ, cải thiện
thâm hụt ngân sách, tạo niềm tin cho các chương trình hỗ trợ quốc tế trong cải cách kinh tế và
mở cửa. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao
mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư. lOMoARcPSD| 40651217
Tuy nhiên, điều cần chú ý ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với xu thế về vốn và công
nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hoá thành quá trình tự
do hoá kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Điều này khiến cho các nước
đang và kém phát triển phải đối mặt với không ít rủi ro, thách thức: đó là gia tăng sự phụ thuộc
do nợ nước ngoài, tình trạng bất bình đằng trong trao đổi mậu dịch thương mại giữa các nước
đang phát triển và phát triển. Bởi vậy, các nước đang và kém phát triển, phát triển cần phải có
chiến lược hợp lý, tìm kiếm các đối sách phù hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa
bình diện và đầy nghịch lý.
b. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu quả thành công. Hội nhập
là tất yếu, tuy nhiên, đối với Việt Nam, hội nhập không phải bằng mọi giá. Quá trình hội nhập
phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức tối ưu. Quá trình này đòi hỏi phải có trong nội bộ
nền kinh tế cũng như các mối quan hệ quốc tế thích hợp.
Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế. Hội
nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó hội nhập kinh tế quốc tế có
thể được coi là nông, sâu tùy vào mức độ tham gia của một nước vào các quan hệ kinh tế đối
ngoại, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực. Theo đó, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
được chia thành các mức độ cơ bản từ thấp đến cao là: Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA),
Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế quan (C). Thị trường chung (hay thị trường duy
nhất), Liên minh kinh tế - tiền tệ.
Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại
của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: Chuẩn bị các điều kiện ngoại thương, đầu
tư quốc tế, hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ..
8.2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế Việt Nam với
nền kinh tế thế giới. Do đó, một mặt, quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều tác động tích cực đối
với quá trình phát triển của Việt Nam, mặt khác cũng đồng thời đưa đến nhiều thách thức đòi
hỏi phải vượt qua mới có thể thu được những lợi ích to lớn từ quá trình hội nhập kinh tế thế giới đem lại.
a. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn trong
phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Cụ thể là: -
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúcđẩy thương mại
phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của nước ta trong
phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao. lOMoARcPSD| 40651217 -
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấukinh tế theo
hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp
trong nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa
học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế. -
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lựcvà tiềm lực
khoa học công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học
với các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ
mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế. -
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệptrong nước tiếp
cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản xuất,
tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế -
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dân
được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng
với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội
tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước. -
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chínhsách nắm bắt
tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược
phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước. -
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điềukiện để tiếp
thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh
của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội. - Hội nhập kinh tế
quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính tri, tạo điều kiện cho cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh. -
Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thíchhợp trong trật
tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các các tổ chức chính trị, kinh tế toàn cầu. -
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòabình, ổn định
ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở ra khả năng phối
hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung như
môi trường, biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
b. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ra nhiều
rủi ro, bất lợi và thách thức, đó là: lOMoARcPSD| 40651217 -
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiếnnhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển. thậm chí là phá sản, gây nhiều
hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nềnkinh tế quốc
gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bi tổn thương trước những biến động khôn
lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằnglợi ích và rủi
ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách
giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội. -
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển nhưnước ta
phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung
vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có
vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp
và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối vớiquyền lực nhà
nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn
định trật tự, an toàn xã hội. -
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóatruyền thống
Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng" của văn hóa nước ngoài. -
Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn
lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp... Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể
dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của chúng rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ,
vượt qua thách thức trong hội nhập kinh tế là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng.
8.2.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong phát triển của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những chủ đề kinh tế có tác động tới toàn bộ tiến
trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện
định hướng và mục tiêu phát triển đất nước. Với cả những tác động đa chiều của hội nhập kinh
tế quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, Việt Nam cần phải tính toán một cách thức phù
hợp để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
a. Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh
tế quốc tế mang lại
Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế có tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn đến những
vấn đề cốt lõi của hội nhập, về thực chất là sự nhận thức quy luật vận động khách quan của lOMoARcPSD| 40651217
lịch sử xã hội. Đó là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để xây dựng chủ trương và chính sách phát triển thích ứng.
Trong nhận thức, trước hết cần phải thấy rằng hội nhập kinh tế là một thực tiễn khách
quan, là xu thế khách quan của thời đại, không một quốc gia nào có thể né tránh hoặc quay
lưng với hội nhập. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài dòng chảy của lịch sử, hội nhập quốc
tế không chi là "khẩu hiệu thời thượng" mà phải là “phương thức tồn tại và phát triển" của nước ta hiện nay.
Nhận thức về hội nhập kinh tế cần phải thấy rõ cả mặt tích cực và tiêu cực vì tác động
của nó là đa chiều, đa phương diện. Trong đó, cần phải coi mặt thuận lợi, tích cực là cơ bản. Đó
là những tác động thúc đẩy của hội nhập kinh tế quốc tế tới tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế,
tiếp cận khoa học công nghệ, mở rộng thị trường...nhưng đồng thời cũng phải thấy rõ những
tác động mặt trái của hội nhập kinh tế như những thách thức về sức ép cạnh tranh gay gắt
hơn; những biến động khó lường trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc
tế và cả những thách thức về chính trị, an ninh, văn hóa. Nhận thức này là cơ sở để đề ra đối
sách thích hợp nhằm tận dụng ưu thế và khắc chế tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc
tế, phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Về chủ thể tham gia hội nhập, nhà nước là một chủ thể quan trọng nhưng không phải
là duy nhất. Nhà nước là người dẫn dắt tiến trình hội nhập và hỗ trợ các chủ thể khác cùng
tham gia sân chơi ở khu vực và toàn cầu. Song, hội nhập quốc tế toàn diện là sự hội nhập của
toàn xã hội vào cộng đồng quốc tế, trong đó doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân sẽ là lực
lượng nòng cốt, nhà nước không thể làm thay cho các chủ thể khác trong xã hội. Trong tiến
trình hội nhập, người dân sẽ được đặt vào vị trí trung tâm, do đó, hội nhập kinh tế quốc tế phải
được coi là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức, đó là những
lực lượng đi đầu trong tiến trình này...
Thực tế hiện nay, chủ trương, đường lối, chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế của
Đảng và nhà nước có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và thực hiện nghiêm túc.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận phiến diện, ngắn hạn và cục bộ; do
đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và ứng phó hữu hiệu với các thách thức.
b. Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp
Chiến lược hội nhập kinh tế về thực chất là một kế hoạch tổng thể về phương hướng,
mục tiêu và các giải pháp cho hội nhập kinh tế. Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế phải phù
hợp với khả năng điều kiện thực tế: -
Trước hết, cần đánh giá đúng được bối cảnh quốc tế, xu hướng vậnđộng kinh tế,
chính trị thế giới: tác động của toàn cầu hóa, của cách mạng công nghiệp đối với các nước và
cụ thể hóa đối với nước ta. Trong đó, cần chú ý tới sự chuyển dịch tương quan sức mạnh kinh
tế giữa các trung tâm; xu hướng đa trung tâm, đa tầng nấc đang ngày càng được khẳng định; lOMoARcPSD| 40651217
nền tảng kinh tế thế giới có những chuyển dịch căn bản do tác động của cách mạng công nghiệp
4.0 và sự phát triển của công nghệ thông tin.
Trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xu hướng liên kết kinh tế đa tầng nấc, đặc biệt
là các hiệp định thương mại tự do (FTA) gia tăng mạnh, hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP).. Châu Á - Thái
Bình Dương đang đóng vai trò đầu tàu trong tăng trưởng và liên kết toàn cầu.
Mặt khác, cũng cần phải đánh giá được vai trò của tổ chức kinh tế quốc tế, các công ty
xuyên quốc gia và vai trò của các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và EU cũng như
các điều chỉnh chính sách của họ trong vai trò chủ đạo, dẫn dắt các xu hướng liên kết kinh tế quốc tế. -
Đánh giá được những điều kiện khách quan và chủ quan có ảnhhưởng đến hội
nhập kinh tế nước ta. Cần làm rõ vị trí của Việt nam để xác định khả năng và điều kiện để Việt Nam có thể hội nhập.
Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã và đang được đẩy nhanh về tốc độ
cũng như phạm vi song việc chuẩn bị bên trong lại không đi liền với tiến trình này. Những vấn
đề mang tính vĩ mô như khuôn khổ pháp lý, năng lực thể chế, chất lượng nguồn nhân lực như
là nút thắt của nền kinh tế, cản trở cạnh tranh ở nhiều cấp độ. Hầu hết các doanh nghiệp Việt
Nam còn nhận thức khá mơ hồ, thiếu sự quan tâm, thiếu thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế.
Chưa năm bắt được các luật chơi, những quy định trên sân chơi lớn. Điều này dẫn đến tình
trạng chưa chủ động trong hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh khi tham gia vào chuỗi
giá trị toàn cầu. Những hạn chế này cần phải được tính toán cụ thể, khắc phục kịp thời để từng
bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế. -
Trong xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế cần nghiên cứu kinhnghiệm của các
nước nhằm đúc rút cả những bài học thành công và thất bại của họ để tránh đi vào những sai
lầm mà các nước đã từng phải gánh chịu hậu quả. -
Xây dựng phương hướng, mục tiêu, giải pháp hội nhập kinh tế phảiđề cao tính
hiệu quả, phù hợp với thực tiễn về năng lực kinh tế, khả năng cạnh tranh, tiềm lực khoa học
công nghệ và lao động theo hướng tích cực, chủ động. -
Chiến lược hội nhập kinh tế phải gắn với tiến trình hội nhập toàndiện đồng thời
có tính mở, điều chỉnh linh hoạt để ứng phó kịp thời với sự biến đổi của thế giới và các tác
động mặt trái phát sinh trong quá trinh hội nhập kinh tế. -
Chiến lược hội nhập kinh tế cần phải xác định rõ lộ trình hội nhậpmột cách hợp
lý. Đây là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo hội nhập kinh tế có hiệu quả,
nhằm tránh những cú sốc không cần thiết, gây tổn hại cho nền kinh tế và các doanh nghiệp, lộ
trình cần phải xác định được các yêu tố thời gian, mức độ, bước đi trong các giai đoạn hội nhập
kinh tế và bám sát được tiến triển bên ngoài và bên trong để điều chỉnh lộ trình một cách thích lOMoARcPSD| 40651217
hợp. Bên cạnh đó, cũng cần xác định các ngành, các lĩnh vực cần ưu tiên trong hội nhập kinh
tế, trên cơ sở đó tập trung các nguồn lực để hình thành các lĩnh vực nòng cốt, các nhân tố đột
phá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
c. Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện đầy đủ
các cam kết của Việt Nam trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230
thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương,
gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiện định chống đánh thuế hai lần.
Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế là sự hình thành các liên kết kinh tế quốc tế và
khu vực để tạo ra sân chơi chung cho các nước.
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC... Việt Nam
đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực tham gia các hoạt động trong
khuôn khổ các tổ chức này.
Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng minh bạch và
tự do hóa thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thế chế cũng như các cam kết mở
cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ. Thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng
Cộng đồng ASEAN; thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC, tích cực đề xuất và
triển khai nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM... Việt Nam triển khai đầy đủ, nghiêm túc các
cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là về cắt giảm thuế quan, mở cửa dịch vụ, đầu tư,..
về cơ bản Việt Nam đã hoàn thành lộ trình cắt giảm theo WTO từ năm 2014. Bên cạnh đó, Việt
Nam đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, ban hành các biểu thuế ưu đãi, thuế nhập khẩu đối với các FTA đã ký kết.
Hiện nay, chúng ta đang nỗ lực hoàn tất các cam kết quốc tế lớn có thời hạn vào 2015 -
2020 nhằm nâng tầm hội nhập quốc tế như: cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN, tầm nhìn
ASEAN đến năm 2025; cam kết gia nhập WTO (thời hạn 31/12/2018), các mục tiêu Bô-go của
APEC về tự do hóa thương mại và đầu tư vào năm 2020...
Việc tích cực tham gia các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện nghiêm túc các cam kết
của các liên kết góp phần nâng cao uy tín, vai trò của Việt Nam trong các tổ chức này; tạo được
sự tin cậy, tôn trọng của cộng đồng quốc tế đồng thời giúp chúng ta nâng tầm hội nhập quốc
tế trên các tầng nấc, tạo cơ chế liên kết theo hướng đẩy mạnh chủ động đóng góp, tiếp cận đa
ngành, đa phương, để cao nội hàm phát triển để đảm bảo các lợi ích cần thiết trong hội nhập kinh tế.
d. Hoàn thiện thế chế kinh tế và luật pháp
Một trong những điều kiện của hội nhập kinh tế quốc tế là sự tương đồng giữa các nước
về thể chế kinh tế. Trên thế giới ngày nay hầu hết các nước đều phát triển theo mô hình kinh
tế thị trường tuy có sự khác biệt nhất định. Việc phát triển theo mô hình “kinh tế thị trường lOMoARcPSD| 40651217
định hướng xã hội chủ nghĩa" của nước ta mặc dù có sự khác biệt với các nước về định hướng
chính trị của sự phát triển nhưng nó không hề cản trở sự hội nhập. Vấn đề có ảnh hưởng lớn
hiện nay là cơ chế thị trường của nước ta chưa hoàn thiện; hệ thống luật pháp, cơ chế, chính
sách chưa đồng bộ, chính sách điều chỉnh kinh tế trong nước chưa phù hợp với điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế; môi trường cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu qủa
của hội nhập kinh tế quốc tế, cần hoàn thiện cơ chế thị trường trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ về
sở hữu, coi trọng khu vực tự nhân, đổi mới sở hữu và doanh nghiệp nhà nước; hình thành đồng
bộ các loại thị trường; đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế…
Đi đôi với hoàn thiện cơ chế thị trường cần đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước trên cơ
sở thực hiện đúng các chức năng của nhà nước trong định hướng, tạo môi trường, hỗ trợ và
giám sát hoạt động các chủ thể kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải cải cách hành chính, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý
ngày càng minh bạch hơn, làm thông thoáng môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước để
thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đó
là cơ sở then chốt để nước ta có thể tham gia vào tầng nấc cao hơn của chuỗi cung ứng và giá
trị khu vực cũng như toàn cầu.
Nhà nước cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là luật pháp liên quan đến
hội nhập kinh tế như: đất đai, đầu tư, thương mại, doanh nghiệp, thuế, tài chính tín dụng...
Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế động thời phòng
ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư
quốc tế; xử lý có hiệu quả các tranh chấp, vướng mắc kinh tế, thương mại nhằm bảo đảm lợi
ích của người lao động và doanh nghiệp trong hội nhập.
e. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế
Hiệu quả của hội nhập kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế cũng như của các doanh nghiệp. Với nền tảng công nghệ và hạ tầng yếu kém, nguồn lao động
có chất lượng thấp, quy mô đầu tư nhỏ bé khiến cho năng lực cạnh tranh thấp, hạn chế khả
năng vươn ra thị trường thế giới của các doanh nghiệp.
Tác động của hội nhập kinh tế có thể rất tích cực, song không có nghĩa đúng với mọi
ngành, mọi doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, ngành hàng, lợi ích cũng không tự đến. Để
đứng vững trong cạnh tranh, các doanh nghiệp phải chú trọng tới đầu tư, cải tiến công nghệ
để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Đặc biệt là phải học hỏi cách thức kinh doanh trong
bối cảnh mới: (1) học tìm kiếm cơ hội kinh doanh, (2) học kết nối cùng chấp nhận cạnh tranh,
(3) học cách huy động vốn, (4) học quản trị sự bất định, (5) học đồng hành với chính phủ, (6)
học “đối thoại pháp lý".
Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp vượt qua
những thách thức của thời kỳ hội nhập. Nhà nước cần chủ động, tích cực tham gia đầu tư và
triển khai các dự án xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với lOMoARcPSD| 40651217
nhu cầu của các doanh nghiệp; tổ chức các khóa đào tạo, trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng hội
nhập, quản trị theo cách toàn cầu, đề cao năng lực sáng tạo, đặc biệt là kiến thức về quy định,
luật kinh tế, thương mại quốc tế…phát triển, hoàn thiện cơ sở hạ tầng sản xuất, giao thông,
thông tin, dịch vụ. giúp giảm chi phí sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút vốn, công
nghệ tiên tiến, thúc đẩy tăng năng suất
f. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính
trị độc lập tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm bảo đảm độc lập tự chủ vững chắc về
chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội
nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có độc lập tự chủ về chính trị thì nội dung cơ bản của độc lập tự
chủ của một quốc gia là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác,
người khác hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị
bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ... để áp đặt, khống chế,
làm tồn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được thông qua tại
Đại hội XI của Đảng đều nhấn mạnh, đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đội với
tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được thực hiện xuyên suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Chiến lược 2011-2020 cũng nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là
yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để
phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ".
Quán triệt tinh thần đó, Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, cụ thể hóa, đề ra các
nguyên tắc, phương châm để nhận thức đúng và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Để xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ đi đối với tích cực và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện, bổ sung đường lối chung và đường lối kinh tế, xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ trọng tâm
nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, giúp Việt Nam
đi tắt, đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác. Trong giai
đoạn hiện nay, cần tập trung vào một số biện pháp sau: -
Đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu. lOMoARcPSD| 40651217 -
Mở rộng và tìm kiếm thị trường mới, đa dạng hóa thị trường, nguồn vốn đầu tư
và đối tác, tránh phụ thuộc vào một thị trường, một đối tác, tạo nền tảng cho phát triển ổn
định, bền vững. Chiến lược thị trường cần gắn kết chặt chẽ với chiến lược sản phẩm và xúc tiến
quảng bá sản phẩm nhằm nâng cao vị thế và uy tín của sản phẩm hàng hóa trong nước. -
Quy định chặt chẽ và mạnh dạn trong đổi mới công nghệ. Đi liền với quá trình du
nhập công nghệ, cần tăng nguồn tài chính đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, nhằm từng
bước nghiên cứu phát triển, tiến tới tự chủ dần về công nghệ.
Thứ ba, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đáp
ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển đồng thời qua đó phát huy vai
trò của Việt Nam trong quá trình hợp tác với các nước các tổ chức khu vực và thế giới. Để chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả, trong thời gian tới cần chú ý thực hiện
những giải pháp cụ thể sau: -
Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các
FTA yêu cầu ở cấp độ cao hơn trong hội nhập kinh tế toàn cầu, tham gia các điều ước quốc tế
trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư... có đại diện làm việc tại các tổ chức thương
mại, đầu tư, giải quyết tranh chấp quốc tế. -
Huy động mọi nguồn lực để thực hiện thành công ba đột phá chiến lược: cải cách
thể chế; phát triển cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực. -
Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện
môi trường sản xuất, kinh doanh để thu hút đầu tư trong và ngoài nước tham gia sản xuất hàng
hóa và dịch vụ cung cấp cho thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường khu vực và thế giới -
Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn thiện thể
chế kinh tế, hành chính, đặc biệt là tăng cường áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế, nhất là những ngành có vị thế của Việt Nam.
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong hội nhập
quốc tế. Mở rộng quan hệ quốc tế phải quán triệt và thực hiện nguyên tắc bình đẳng, cùng có
lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc; giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình. Đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả các quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để tạo
sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam Nghị quyết Trung
ương 8 khóa IX nhấn mạnh: “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách
mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia". Để thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản của cách lOMoARcPSD| 40651217
mạng và lợi ích căn bản của đất nước, trong bối cảnh thế giới ngày nay, chúng ta cần giữ vững
độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Độc lập, tự chủ là khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc. Hội nhập quốc tế là phương
thức phát triển đất nước trong thế giới ngày nay. Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có
mối quan hệ biện chứng; vừa tạo tiền đề cho nhau và phát huy lẫn nhau, vừa thống nhất với
nhau trong việc thực hiện mục tiêu cơ bản của cách mạng và lợi ích căn bản của đất nước, dân
tộc, trước hết là mục tiêu phát triển.
Giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong là nền tảng của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Song, độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, “đóng
cửa" với thế giới, vì điều đó không phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, sẽ không thể
phát triển và tất yếu làm suy yếu độc lập, tự chủ. Giữ vững độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế. Có giữ vững độc lập, tự chủ thì mới có thể đẩy mạnh hội nhập
quốc tế, vì không giữ được độc lập, tự chủ thì quá trình hội nhập sẽ chuyển hóa thành “hòa
tan", mục tiêu phát triển và an ninh đều không đạt được. Đồng thời, càng hội nhập quốc tế có
hiệu quả thì càng có thêm điều kiện và tạo được vị thế thích hợp để giữ vững độc lập, tự chủ
thông qua việc tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo lập sự đan xen lợi ích với đối tác, nâng
cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng,
an ninh... Vừa giữ vững độc lập, tự chủ, vừa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế còn là phương
thức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hiệu quả của hội nhập quốc tế được đo bằng mức độ thực hiện các mục tiêu phát triển,
an ninh và gia tăng vị thế của đất nước. Để bảo đảm hội nhập quốc tế có hiệu quả, cần độc lập,
tự chủ trong việc quyết định chiến lược tổng thể, mức độ, phạm vi, lộ trình và bước đi hội nhập
quốc tế trên từng lĩnh vực. Hội nhập quá nhanh, quá rộng trong khi năng lực tự chủ còn yếu thì
không thể có hiệu quả.
Độc lập, tự chủ còn là cơ sở để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Càng hội nhập sâu rộng càng
đòi hỏi khẳng định bản sắc, càng có nhu cầu giữ gìn giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc.
Hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững độc lập,
tự chủ. Sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc của nước này
vào nước khác. Trường hợp này dễ xảy nước giàu, nước lớn. Hội nhập quốc tế cũng có thể tác
động tới sự phân hóa xã hội của từng nước, khi lợi ích từ việc hội nhập được phân chia khác
nhau đối với các nhóm khác nhau trong xã hội và từ đó góp phần làm trầm trọng thêm các vấn
đề xã hội. Hội nhập quốc tế còn có thể làm cho lợi ích nhóm nổi trội hơn, từ đó làm cho quá
trình quyết sách thêm phức tạp, nhất là trong trường hợp lợi ích nhóm trong các nước liên kết
với các yếu tố ra đối với các nước nghèo, nước nhỏ trong mối quan hệ với các nước ngoài. Hội
nhập quốc tế không hiệu quả sẽ làm suy giảm độc lập, tự chủ, suy giảm chủ quyền quốc gia. lOMoARcPSD| 40651217
Để hội nhập có hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ và quan niệm về độc
lập, tự chủ là bất biến. Tuyệt đối hóa hay quan niệm cứng nhắc về độc lập, tự chủ sẽ ngăn cản
hội nhập, bỏ lỡ thời cơ hoặc làm giảm hiệu quả của hội nhập, do đó sẽ tác động tiêu cực trở lại
tới độc lập, tự chủ. Mặt khác, nếu không chủ động, sáng tạo tìm ra những phương thức mới
phù hợp với hoàn cảnh và các điều kiện hình thành từ quá trình hội nhập quốc tế, thì việc bảo
đảm độc lập, tự chủ sẽ gặp nhiều thách thức.
Việc quán triệt, xử lý thành công mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
đã góp phần quan trọng giúp đất nước ta đạt được những thành tựu phát triển to lớn, có ý
nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới. Nước ta đã tiến vào một chiều sâu mới trên quỹ đạo hội
nhập quốc tế, thực hiện những điều chỉnh căn bản, nâng cao vị thế, quy mô và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế; độc lập dân tộc được củng cổ, năng lực tự chủ quốc gia được tăng cường.
Từ chỗ chỉ có quan hệ ngoại giao với hơn 30 nước vào năm 1986, đến nay nước ta đã có quan
hệ ngoại giao với 187 nước; có quan hệ kinh tế với hơn 223 quốc gia và vùng lãnh thổ (7). Quan
hệ của nước ta với tất cả các nước lớn đều phát triển tốt đẹp; đặc biệt, quan hệ với một số
nước bắt đầu đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả thông qua việc xác lập những khuôn khổ
đối tác toàn diện và đối tác chiến lược. Từ chỗ đứng ngoài, nước ta đã là thành viên của hơn
70 tổ chức khu vực và thế giới. Từ chỗ chỉ có các hiệp định kinh tế song phương dựa trên nguyên
tắc lỏng lẻo, nước ta đã tiến tới có các hiệp định kinh tế mang tính thể chế cao hơn trên cả cấp
độ song phương, đa phương, khu vực và toàn cầu, trong đó có những hiệp định thương mại tự
do (FTA) thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương
mại Việt Nam châu Âu (VEFTA),... thể hiện sự tích cực, chủ động đẩy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế sâu, rộng.
***********THE END***************